Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi ở việt nam


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi ở việt nam": http://123doc.vn/document/1051616-mot-so-kien-nghi-nham-phat-trien-thi-truong-bao-hiem-tien-gui-o-viet-nam.htm


Đề án kinh tế bảo hiểm

-Đối với khách hàng: có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất
kinh doanh. . .
Để đối phó với những rủi ro tổn thất khong lờng trớc đợc do các rủi ro gây
ra, có rất nhiều biện pháp khác nhau nhng biện pháp tốt nhất là bảo hiểm,
nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo
hiểm. Chính vì vậy, sự ra đời của bảo hiểm tiền gửi là một tất yếu khách
quan.
2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là sự đảm bảo bằng vật chất đối với các khoản
tiền gửi của ngời gửi tiền tại các tổ chức tín dụng (TCTD) trong trờng hợp tổ
chức tín dụng gặp rủi ro không thanh toán đợc tiền cho ngời gửi. Hoạt động
BHTG dựa trên cơ sở xác lập và sử dụng quỹ bảo hiểm của các tổ chức
BHTG mà các TCTD tham gia. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi bao gồm:
Thứ nhất: BHTG bảo vệ quyền lợi ngời gửi tiền. Điều đó đợc thực hiện
trực tiếp thông qua việc sử dụng quỹ bảo hiểm để bồi thờng cho ngời gửi tiền
khi TCTD tham gia bảo hiểm bị vỡ nợ. Thông thờng, các tổ chức BHTG chỉ
bồi thờng số tiền trong một giới hạn nhất định. Đối với ngời gửi tiền vợt quá
mức giới hạn nào đó (nh ở Mỹ là 100. 000 USD) cũng đợc bồi thờng một
phần. Hoạt động của BHTG cũng mang tính trợ giúp hạn chế, ngăn ngừa rủi
ro xảy ra đối với các TCTD chính là bảo vệ quyền lợi của ngời gửi tiền.
Thứ hai: BHTG bảo vệ các TCTD tham gia bảo hiểm. Thể hiện trực tiếp
thông qua hoạt động ngăn ngừa, trợ giúp các TCTD tham gia bảo hiểm khi

Vũ Thị Hồng Lan -
5
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

gặp khó khăn. Sự trợ giúp có thể dới hình thức cho vay, khuyến khích các
TCTD khác cho vay, yêu cầu thay đổi về quản lý, mua nợ các TCTD khó
khăn.
Mặt khác, sự bảo vệ đó còn thể hiện gián tiếp thông qua việc tổ chức
BHTG bảo vệ quyền lợi của ngời gửi tiền. Khi ngời gửi tiền không đợc bảo
hiểm, nếu một TCTD bị phá sản thì gửi tiền sẽ không đòi lại đợc đầy đủ giá
trị tiền gửi, thậm trí có khả năng bị mất trắng. Nếu vì một lý do nào đó,
những ngời gửi tiền nghi ngờ về sự vỡ nợ của TCTD họ sẽ rút tiền ngay lập
tức. Điều này dễ dẫn đến một phản ứng dây chuyền mọi ngời đổ xô đến rút
tiền làm cho TCTD đó bị phá sản. Chính sự cam kết bồi thờng của các tổ
chức BHTG khi TCTD tham gia làm yên lòng ngời gửi tiền, hạn chế và chấm
dứt cảnh lan truyền dòng ngời đi rút tiền, từ đó hạn chế sự vỡ nợ của các
TCTD.
Thứ ba:BHTG bảo vệ hệ thông các TCTD. Sự đổ vỡ của một tổ chức tín
dụng có thể lan truyền sang các TCTD khác do ngời gửi tiền ở các TCTD
khác nghi ngờ rằng TCTD của họ không có khả năng trả lại tiền họ đã gửi đ-
ợc. Việc một tổ chức tín dụng bị phá sản có thể châm ngòi cho các TCTD
khác bị phá sản theo. Điều này có thể nhân rộng tới khi có một vụ hoảng loạn
ngân hàng dẫn tới cả hệ thông bị phá sản. Khi có một TCTD tham gia BHTG,
không những sẽ có tác dụng ngăn chặn sự vỡ nợ của một TCTD mà còn có
tác dụng ngăn chặn cả những vụ hoảng loạn ngân hàng, góp phần bảo vệ cho
cả hệ thống TCTD.
Thứ t: BHTG góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Với vai trò chuyển vốn từ
ngời có vốn đến ngời cần vốn, các TCTD đảm bảo cho nền kinh tế phát triển
nhịp nhàng, hiệu quả. Khi hệ thống các tổ chức tín dụng mất ổn định, hoảng
loạn thì tác hại của nó với nền kinh tế cũng rất nghiêm trọng, có thể làm ng-

Vũ Thị Hồng Lan -
6
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

ng trệ, gián đoạn sản xuất gây mất trật tự an toàn xã hội. Thông qua vai trò
bảo vệ an toàn các TCTD cũng nh cả hệ thống TCTD, BHTG đã góp phần
quan trọng vào ổn định của nền kinh tế - xã hội.
Tóm lại, vai trò của BHTG rất quan trọng, nó không chỉ duy trì sự an toàn
cho các TCTD, bảo vệ ngời gửi tiền mà còn là động lực tạo đà cho nền kinh
tế phát triển nhịp nhàng, ổn định.
3. Sơ lợc về lịch sử ra đời và phát triển của BHTG
Lịch sử hoạt động ngân hàng trên thế giới cho thấy, BHTG trở thành vấn
đề tất yếu và dợc các nớc thực hiện từ rất lâu. Hệ thống quỹ tín dụng
Desjardins của Canada đợc thành lập từ năm 1900 tại Quebéc (Canada). Bên
ngoài hệ thông Desjardins, nhà nớc lập ra ba tổ chức: cơ quan bảo hiểm nông
nghiệp của Quebéc, cơ quan tín dụng và cơ quan BHTG của Quebéc. Nếu
tính từ năm 1933 (ở Mỹ), năm 1937 (ở Đức) và năm 1938 (ở Nauy) là những
nớc đã thành lập, tổ chức BHTG đã có gần 70 năm. nhng thời gian mà BHTG
phát triển mạnh nhất là thập kỷ 80, có trên 10 nớc đã lần lợt cho ra đời tổ
chức BHTG.
BHTG phát triển hết sức phong phú và đa dạng, ban đầu các nớc chỉ có tổ
chức bảo toàn tiền gửi nằm trong hệ thông ngân hàng, sau đó mới phát triển
thành tổ chức BHTG hoạt động tách biệt. Ngày nay, BHTG phát triển hết sức
mạnh mẽ với nhiều hình thức khác nhau.
Theo một tài liệu nghiên cứu của Đài Loan ở 25 hệ thống BHTG của 22 n-
ớc, cho thấy tính đa dạng của mô hình và những phơng thức BHTG, mặc dù

Vũ Thị Hồng Lan -
7
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

mục tiêu của những mô hình đó gần nh đều thống nhấtvới nhau: bảo vệ ngời
gửi tiền, duy trì sự an toàn của hệ thống ngân hàng.
Tính đa dạng thể hiện ở: trên thế giới có nhiều dạng mô hình và trong một
nớc cũng có nhiều tổ chức độc lập, cùng hoạt động theo pháp luật, mỗi tổ
chức đó thực hiện BHTG cho hệ thống theo những phạm vi nhất định.
Nhìn tổng quát trong số 22 nớc đã nghiên cứu: có 11 tổ chức công, là
những tổ chức thuộc nhà nớc (Canada, Aixơlen, ấn Độ, Hà Lan, Nigenia,
Philippin, Đài Loan, Mỹ, Trinidad & Tobaco); 8 tổ chức t của các ngân hàng
lập nên (Đan Mạch, Pháp, Đức, Aixơlen, ý, Lucxambua, Nauy, Thuỵ Sỹ); 4
tổ chức là hỗn hợp công t (Bỉ, Hung gari, Nhật, Anh).
Cũng có quốc gia hiện nay có nhiều tổ chức BHTG (Aixơlen, Nauy,
Pháp, Mỹ, Đức). Aixơlen: Có quỹ BHTG cho các ngân hàng thơng mại, là
một tổ chức bán công, thành lập từ năm 1986, lại có quỹ BHTG cho các ngân
hàng tiết kiệm, là một tổ chức t cùng thành lập năm 1986. Nauy, có 3 quỹ
BHTG riêng biệt, đều là những tổ chức t (1921, thành lập quỹ BHTG ngân
hàng thơng mại; 1938, thành lập quỹ BHTG ngân hàng tiết kiệm; 1991, thành
lập quỹ BHTG ngân hàng chính phủ). Pháp cũng có nhiều tổ chức BHTG
theo từng loại hình TCTD (mỗi hệ thống TCTD có tổ chức BHTG của hiệp
hội của tổ chức đó. Riêng các ngân hàng tơng tế, ngân hàng HTX không phải
ra nhập BHTG, vì họ đã đợc bảo đảm khả năng thanh toán ngay trong hệ
thống). Nhìn vào lịch sử phát triển BHTG ở Đức, thấy có ba loại hình: Thứ
nhất là của nhà nớc, tức là nhà nớc đứng ra bảo hiểm cho những ngời gửi tiền
(đến nay, nhà nớc chỉ thực hiện đối với ngời gửi tiền ở các quỹ tiết kiệm);
Thứ hai, thông qua hệ thống bảo hiểm chung (SBIC) thuộc công ty bảo toàn
liên bang; Thứ ba, hình thức bảo hiểm do TCTD kết hợp với nhau, đó là mô
hình bảo toàn tiền gửi, do các hiệp hội lập ra. Chỉ riêng loại này ở Đức có 3

Vũ Thị Hồng Lan -
8
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

mô hình bảo toàn tiền gửi của ba nhốm tổ chức tín dụng khác nhau: Nhóm tổ
chức tiết kiệm, các hợp tác xã tín dụng và các ngân hàng t nhân.
Có thể thấy rằng, BHTG phát triển tơng đối mạnh mẽ ở các nớc trên
thế giới qua các thời kỳ với nhiều hình thức và mô hình khác nhau cùng hoạt
động bổ sung, tơng hỗ cho nhau.
II. nội dung của bhtg
1. Đối tợng tham gia BHTG
Đối tợng tham gia bảo hiểm là các quỹ tín dụng nhân dân. Bảo hiểm chỉ
bảo hiểm trách nhiệm của quỹ đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn.
2. Phạm vi của BHTG
Trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng nh trong đời sống, con ngời
có thể gặp rủi ro nh: thiên tai, hoả hoạn, ốm đau, tai nạn. . . Đặ biệt trong nền
kinh tế thị trờng các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ngoài các rủi ro trên
còn có thể gặp các rủi ro do quy luật cạnh tranh mang lại. Các rủi ro này có
thể làm doanh nghiệp bị phá sản.

Vũ Thị Hồng Lan -
9
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

Các ngân hàng thơng mại cũng nh các doanh nghiệp khác cũng có thể
gặp các rủi ro và hơn thế nã với hoạt động đặc biệt là kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ, hệ số rủi ro của các ngân hàng thơng mại cao hơn rất nhiều so với
các doanh nghiệp khác. Các chuyên gia ngân hàng đã đề cập rất nhiều đến
vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng dới nhiều khía cạnh khác nhau. Có
những rủi ro khách quan do các hiện tợng thiên nhiên và xã hội diễn biến
phát triển phức tạp ngoài tầm kiểm soát của con ngời, khả năng dự tính, dự
báo của con ngời còn bị hạn chế, có những rủi ro chủ quan do sự bất cập của
con ngời, có những rủi ro do cơ chế, do đạo đức của cán bộ ngân hàng. Tuy
nhiên, không phải tất cả các loại rủi ro này đều đợc bảo hiểm. Chính vì vậy,
tổ chức BHTG đã quy định những rủi ro nào đợc bảo hiểm, những rủi ro nào
không đợc bảo hiểm.
a. Các rủi ro đợc bảo hiểm
Trong bảo hiểm tiền gửi các rủi ro sau đợc bảo hiểm:
Sự phá sản của quỹ tín dụng
Phá sản là trờng hợp quỹ tín dụng không thể trả nợ một cách đầy đủ
hoặc quỹ tín dụng không thể tiếp tục kinh doanh vì bị thiếu vốn. Trong tr-
ờng hợp này, các công việc của quỹ phải giao cho ban thanh lýtài sản xử lý
các tài sản còn lại theo đúng quy định pháp lý về phá sản của Nhà nớc.
Sự giải thể bắt buộc của quỹ tín dụng

Vũ Thị Hồng Lan -
10
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

Giải thể bắt buộc là do không tuân thủ các quy tắc, luật lệ của Nhà nớc
hoặc có thể do chủ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bố giải thể vì quỹ tín dụng
từ chối thanh toán và chỉ có cách này mới hi vọng thu hồi đợc tiền.
Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay
mất khả năng thanh toán của quỹ tín dụng
Trờng hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc dù
vẫn có khả năng thanh toán nhng không đúng mục đích đã đề ra, không
muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lý quỹ không cho hoạt động tiếp.
Trong trờng hợp này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thờng cho những ngời gửi
tiền nhng sẽ đợc thế quyền để hởng số tiền thanh lý tài sản hay đòi nợ.

Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá
sản của quỹ tín dụng
Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của quỹ tín dụng là tình
trạng quỹ tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn
khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn. Tuy nhiên không muốn toà án can thiệp, các cổ đông của
quỹ chấp nhận tuyên bố giải thể. Trong trờng hợp này, bảo hiểm cũng có
trách nhiệm bồi thờng đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn mà quỹ không
thanh toán hết sau khi có quyết định giải thể.
Không thể thựcc hiện việc thanh toán cho những ngời gửi tiền vì một
mệnh lệnh của toà án đối với quỹ tín dụng

Vũ Thị Hồng Lan -
11
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

Xảy ra trong trờng hợp quỹ tín dụng cố ý không thanh toán nợ và
chủ nợ đệ đơn lên toà án để có lệnh bắt buộc quỹ phải tuyên bố phá sản hay
thanh lý để trả nợ các chủ nợ cho rằng chỉ có cách này họ mới thu đợc nợ.
Lệnh của toà án cũng đợc áp dụng khi:
-Quỹ tín dụng không có phơng án hoà giải và có giải pháp tổ chức lại
hoạt động kinh doanh của quỹ theo yêu cầu của toà án.
-Quỹ tín dụng không tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các phơng
án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của quỹ tín
dụng.
-Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, quỹ tín dụng vi phạm nghiêm
trọng những thoả thuận tại hội nghị của chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên
bố phá sản.
-Hết thời hạn tổ chức lại kinh doanh mà quỹ tín dụng vẫn kinh doanh
khônh có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu toà án phải có tuyên bố phá sản
quỹ tín dụng.
b. Các rủi ro loại trừ
Những rủi ro loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro
gây ra sự phá sản, thanh lý hay giải thể một quỹ tín dụng trong các trờng
hợp:

Vũ Thị Hồng Lan -
12
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán
đã nêu trong pháp lệnh ngân hàng của quỹ tín dụng.
Quỹ tín dụng có điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhng cũng phải
tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nớc. Nếu quỹ tín dụng vi phạm
nghiêm trọng các quy định về tiền tệ, tín dụng thanh toán của ngân hàng
dẫn đến phá sản thì bảo hiểm không bồi thờng.
Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân
-Do cổ đông nhận thức thấy mục tiêu khi thành lập quỹ không đạt đợc.
-Do cổ đông muốn thu hồi lại vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của
quỹ tín dụng.
Ngừng hoạt động do những nguyên nhân
Quỹ tín dụng ngừng hoạt động vì chiến tranh, đình công, bạo loạn dân
sự, nội chiến. Đây là những rủi ro loại trừ thông thờng, không liên quan
đến hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi quỹ tín dụng bị phá sản, thanh lý,
giải thể do các rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm cho
những ngời gửi tiền có kỳ hạn.
3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm

Vũ Thị Hồng Lan -
13
- Lớp Bảo Hiểm 40B
Đề án kinh tế bảo hiểm

a. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số d tiền gửi có kỳ hạn trong báo cáo số d tiền gửi
mỗi quý của quỹ tín dụng.
b. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là số tiền quỹ tín dụng phải trả cho ngời bảo hiểm để bảo
hiểm số d tiền gửi có kỳ hạn của quỹ tại thời điểm cuối mỗi quý. Phí bảo
hiểm mà quỹ tín dụng trả cho ngời bảo hiểm theo từng quý đợc tính theo
công thức:
90x
365
R
mxP =
Trong đó: P: Phí bảo hiểm theo quý;
m: Số d tiền gửi có kỳ hạn;
R: Tỷ lệ phí bảo hiểm;
90: Số ngày của một quý;
365: Số ngày trong năm;
Vì bảo hiểm chỉ bảo hiểm các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Do đó khi báo
cáo số d tiền gửi, các quỹ tín dụng phải phân loại:

Vũ Thị Hồng Lan -
14
- Lớp Bảo Hiểm 40B

phát triển hoạt động môi giới của công ty tnhh ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn việt nam


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "phát triển hoạt động môi giới của công ty tnhh ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn việt nam": http://123doc.vn/document/1051956-phat-trien-hoat-dong-moi-gioi-cua-cong-ty-tnhh-ngan-hang-nong-nghiep-phat-trien-nong-thon-viet-nam.htm


Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
LỜI MỞ ĐẦU

Môi giới chứng khoán là một trong những hoạt động cơ bản và cần thiết
của bất kì công ty chứng khoán nào; về bản chất đây là hoạt động có tính chất
trung gian hoặc đại diện mua, bán cho khách hàng để hưởng phí hoặc hoa
hồng. Môi giới chứng khoán có vai trò quan trọng giúp cho thị trường chứng
khoán hoạt động an toàn, ổn định và phát triển.
Thị trường chứng khoán chính thức ở Việt Nam (Sở giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Trung Tâm giao dịch Thành Phố Hà Nội)
đến nay mới hoạt động được gần 8 năm, đó là một khoảng thời gian còn rất
ngắn nếu đem so sánh với lịch sử hàng trăm năm của Thị trường chứng khoán
(TTCK) các nước phát triển hoặc hàng chục năm của những nước láng giềng.
Mặc dù TTCK nước ta sau thời gian hoạt động đã đạt được một số mục tiêu
cơ bản ban đầu được chính phủ đề ra nhưng sự phát triển vẫn chưa toàn diện
về nhiều mặt như quy mô, cấu trúc thị trường, khung pháp lý và các tổ chức
tài chính trung gian, trong đó có hoạt động của các công ty chứng khoán. Mọi
hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam hiện nay đều đang ở những
bước đi ban đầu, và cần nhiều thời gian hơn để thúc đẩy và phát triển.
Cùng với xu thế phát triển kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế trên toàn
thế giới, tất yếu sẽ thúc đẩy Thị trường chứng khoán nước ta ngày càng phát
triển trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Hoạt
động của các công ty chứng khoán cũng không thể nằm ngoài sự phát triển
chung đó.
Do đó, nghiên cứu về các hoạt động của công ty chứng khoán đặc biệt là
về hoạt động môi giới là rất cần thiết để có thể tìm ra được những giải pháp
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 1 Lớp Tài Chính Công K46
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
khả thi phát triển hoạt động của các công ty chứng khóan, góp phần đẩy mạnh
sự phát triển trong tương lai của Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chính vì vậy, qua quá trình thực tập tại công ty TNHH Ngân Hàng Nông
Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam em đã chọn đề tài cho chuyên đề
thực tập tốt nghiệp của mình là “Phát triển hoạt động môi giới của công ty
TNHH Ngân Hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam”.
Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề là:
Củng cố và tìm hiểu sâu hơn lý thuyết về hoạt động môi giới của công
ty chứng khoán.
Qua nghiên cứu kĩ về lý thuyết kết hợp với việc tìm hiểu và phân tích
về thực trạng hoạt động môi giới của Công ty Chứng khoán Nông Nghiệp,
bước đầu vận dụng những lý thuyết này vào thực tế để có thể đóng góp được
một số ý kiến giúp hoạt động môi giới của công ty tốt hơn.
Nội dung của chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty
chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hiệu quả môi giới chứng khoán của Công ty
TNHH Chứng khoán NHNO & PTNT Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả môi giới chứng khoán của
Công ty TNHH Chứng khoán NHNO & PTNT Việt Nam
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 2 Lớp Tài Chính Công K46
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG
KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái quát chung về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm
Sau một thời gian dài hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị
trường giờ đây thị trường chứng khoán ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở
thành nhân tố không thể thiếu đối với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại.
Đặc trưng cơ bản của thị trường chứng khoán là hoạt động theo nguyên tắc
trung gian. Do vậy, để thị trường chứng khoán hoạt động một cách trật tự,
công bằng và hiệu quả cần có sự tham gia của các công ty chứng khoán
(CTCK).
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.
Các CTCK có hoạt động khác hẳn so với các công ty sản xuất kinh
doanh và dịch vụ thương mại thông thường do vậy mô hình tổ chức kinh
doanh của các CTCK có thể được khái quát theo hai nhóm: Mô hình CTCK
đa năng và Mô hình CTCK chuyên doanh. Mỗi mô hình đều có những ưu,
nhược điểm nhất định. Từ những ưu, nhược điểm của hai mô hình CTCK và
xuất phát từ yêu cầu phòng ngừa rủi ro, đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư, mô
hình CTCK ở Việt Nam là sự kết hợp giữa mô hình CTCK chuyên doanh và
CTCK đa năng một phần. Điều này thể hiện trong Quyết định 04/1998/QĐ-
UBCK ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN: CTCK là công ty cổ phần,
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 3 Lớp Tài Chính Công K46
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được
UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh
chứng khoán. Các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, các tổng công ty
muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập CTCK độc lập. Ngoài
ra, các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật có thể
thành lập công ty TNHH hay công ty cổ phần để kinh doanh chứng khoán.
Là một chế định tài chính trung gian đặc biệt song CTCK cũng là một
chủ thể kinh doanh trên thị trường tài chính, CTCK có nhiều điểm tương đồng
với các tổ chức tài chính trung gian nói chung. Tuy nhiên, với các hoạt động
nghiệp vụ đa dạng và phức tạp của mình, CTCK cũng có những đặc điểm tạo
nên sự khác biệt căn bản với các tổ chức khác.
1.1.1.2. Đặc điểm của công ty chứng khoán
a. Các CTCK tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt từ những người có
tiền (nhà đầu tư) đến những người muốn huy động vốn thông qua hoạt động
bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.
Các ngân hàng, các CTCK, các quỹ đầu tư đều là các trung gian tài chính
với vai trò huy động vốn. Nói cách khác, các tổ chức này có vai trò làm chiếc
cầu nối, đồng thời là kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào
đó của nền kinh tế có dư thừa vốn (vốn tạm thời nhàn rỗi) đến các bộ phận
khác đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Mặc dù có vai trò giống nhau nhưng
cách thức thực hiện của các tổ chức đó lại khác nhau, các ngân hàng thường
thực hiện vai trò này thông qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, các quỹ
đầu tư thì phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, cổ phiếu rồi tiến hành hoạt động
đầu tư vào nền kinh tế. Khác với ngân hàng và quỹ đầu tư, các CTCK lại tạo
ra cơ chế huy động vốn thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới
chứng khoán.
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 4 Lớp Tài Chính Công K46
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
b. Thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh, CTCK cung cấp cơ chế
giá cả cho giao dịch.
Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, CTCK nói riêng, thông qua
các Sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, có chức năng cung cấp một
cơ chế giá cả nhằm giúp các nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và
chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. Giá cả hay giá trị thị trường của
các loại chứng khoán được công bố một cách chính xác, minh bạch nhờ hệ
thống khớp giá, khớp lệnh công khai dưới sự trợ giúp của công nghệ thông
tin. Các báo cáo tài chính được phát hành từng ngày và thông tin đầy đủ về
giá cổ phiếu của các công ty được niêm yết trên thị trường do sở giao dịch
chứng khoán công bố. Ngoài ra, các chứng khoán của nhiều công ty lớn
không được niêm yết trên Sở giao dịch cũng có thể được công bố trên các tờ
báo tài chính.
c. Thông qua hoạt động môi giới chứng khoán, CTCK tạo tính thanh
khoản cho chứng khoán .
Một trong những đặc trưng cơ bản của thị trường chứng khoán là hoạt
động theo nguyên tắc trung gian. Theo đó, các CTCK và nhân viên môi giới
chứng khoán thực hiện các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Mục đích
của đầu tư là sinh lời do vậy các nhà đầu tư mong muốn có được khả năng
chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại, từ chứng khoán ra
tiền mặt một cách dễ dàng đó là sự đảm bảo vững chắc cho một môi trường
đầu tư ổn định hay nói cách khác các nhà đầu tư mong muốn tạo ra tính thanh
khỏan cao nhất có thể cho chứng khóan mà mình đầu tư. Chính vì vậy các
CTCK ra đời đảm nhận chức năng chuyển đổi này, giúp cho nhà đầu tư hạn
chế tối đa thiệt hại khi tiến hành đầu tư.
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 5 Lớp Tài Chính Công K46
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
d. Thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường
CTCK góp phần điều tiết và bình ổn thị trường.
Các CTCK có khả năng can thiệp vào thị trường, góp phần điều tiết giá
chứng khoán. Theo quy định, để bình ổn giá cả thị trường các CTCK bắt buộc
phải dành ra một tỷ lệ giao dịch nhất định của mình để mua chứng khoán vào
khi giá chứng khoán trên thị trường giảm và bán chứng khoán ra khi giá
chứng khoán lên cao.
1.1.2. Các hoạt động của CTCK
- Hoạt động môi giới chứng khoán: Thị trường chứng khoán ra đời xuất
phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế phát triển song còn mang tính tự phát.
Dần dần, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, thị trường
chứng khoán phát triển ngày càng mạnh cả về số lượng và chất lượng với số
thành viên tham gia đông đảo và lượng hàng hoá phong phú, đa dạng ngày
một tăng lên. Các phương thức giao dịch đầu tiên được diễn ra ngoài trời với
những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Từ
đó có thể nói môi giới chứng khoán là một trong các hoạt động cơ bản hàng
đầu của CTCK, là hoạt động đặc trưng không thể thiếu của bất kì một CTCK.
Trong một môi trường tài chính còn thô sơ về mọi phương diện, sự xuất hiện
và phát triển của hoạt động môi giới chứng khoán là nhân tố thúc đẩy sự phát
triển và hoàn thiện của thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài
chính nói chung.
- Hoạt động tự doanh chứng khoán: Bên cạnh việc thực hiện hoạt động
môi giới chứng khoán, làm trung gian mua, bán chứng khoán cho khách hàng
để hưởng hoa hồng, CTCK còn tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng
khoán cho chính mình tức hoạt động tự doanh chứng khoán.
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 6 Lớp Tài Chính Công K46
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch mua, bán
chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
diễn ra dựa trên cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị
trường OTC. Mục đích chính của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận
cho chính công ty thông qua hoạt động mua bán chứng khoán. Hoạt động tự
doanh của CTCK cũng tương tự như hoạt động kinh doanh của các công ty
dịch vụ khác trong nền kinh tế. Nghiệp vụ này tiến hành song song với nghiệp
vụ môi giới, nghĩa là nhân viên môi giới của công ty vừa phục vụ lệnh giao
dịch cho khách hàng vừa phục vụ giao dịch cho chính mình. Để hạn chế
những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa khách hàng và công ty hầu hết ở các
nước đều có quy định là khi hai lệnh giao dịch của khách hàng và công ty đến
cùng một lúc thì lệnh của khách hàng luôn luôn được ưu tiên thực hiện trước
rồi mới đến lệnh của công ty.
Trong hoạt động môi giới chứng khoán công ty chủ yếu thu lợi từ phí
giao dịch của nhà đầu tư, thì trong hoạt động tự doanh, các CTCK phải sử
dụng nguồn vốn của công ty mình để kinh doanh. Vì vậy, hoạt động này đòi
hỏi CTCK phải có nguồn vốn lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên
môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt
trong trường hợp CTCK đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
- Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán: là việc các công ty
chứng khóan đứng ra bảo lãnh phát hành chứng khóan lần đầu hay phát hành
thêm của các tổ chức phát hành. Một trong những cơ sở để thị trường chứng
khoán có thể phát triển là lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán phải đa
dạng, dồi dào, phong phú đồng thời hàng hoá đó phải đến tay nhà đầu tư một
cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là tiền đề cho sự xuất hiện
của họat động bảo lãnh phát hành
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 7 Lớp Tài Chính Công K46
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc mà các CTCK có chức năng bảo
lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện chuẩn mực các thủ tục trước khi chào
bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp
bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
Thu nhập của CTCK từ hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là
phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt
phát hành chứng khóan. Để có thể tham gia hoạt động bảo lãnh phát hành,
CTCK phải có tiềm lực tài chính, có trình độ và kinh nghiệm trong việc xác
định giá trị kinh doanh hay thẩm định dự án, cũng như mạng lưới phân phối
đủ mạnh để có thể phân phối được hết số chứng khóan mà công ty thực hiện
bảo lãnh. Đây cũng là hoạt động đòi hỏi phải có vốn pháp định cao nhất trong
các loại hình hoạt động nghiệp vụ mà CTCK thực hiện.
Với 3 phương thức bảo lãnh phát hành chứng khóan là bảo lãnh cam kết
chắc chắn, bảo lãnh cam kết cố gắng tối đa và bảo lãnh cam kết bán tất cả
hoặc không, rủi ro mà CTCK phải gánh chịu trong một đợt phát hành là khác
nhau tuỳ thuộc vào phương thức bảo lãnh phát hành và năng lực của chính
công ty.
- Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán: Tư vấn đầu tư chứng khoán là
việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích
các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan
đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Hoạt động này có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động môi giới chứng
khoán và hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Có thể nói các hoạt
động này không thể họat động tách rời nhau. Trong khi tiến hành hoạt động
môi giới chứng khoán, nhân viên môi giới có thể tư vấn cho khách hàng về
thời gian mua bán, nắm giữ chứng khoán, giá trị của các loại chứng khoán,
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 8 Lớp Tài Chính Công K46
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
các diễn biến của thị trường …Đối tượng của hoạt động tư vấn rất rộng, ngoài
các nhà đầu tư có tài khoản giao dịch ở công ty còn có thể là nhà phát hành.
Hoạt động tư vấn cho nhà phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tình
hình tài chính đến đánh giá giá trị của doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng
khoán phát hành hay giúp công ty cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sáp
nhập với các công ty khác. Hoạt động tư vấn phát triển là nhân tố quan trọng
thúc đẩy hoạt động môi giới chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán
phát triển, là thế mạnh trong cạnh tranh giữa các CTCK. CTCK nào có được
thế mạnh này thì doanh thu từ hoạt động môi giới chắc chắn sẽ là một con số
khổng lồ.
- Hoạt động quản lý danh mục đầu tư: Đây là hoạt động quản lý vốn uỷ
thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư
nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho
khách hàng.
Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn có tính tổng hợp
có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho công ty chứng khoán thay
mặt mình quyết định đầu tư theo chiến lược hay những nguyên tắc đã được
khách hàng chấp thuận hoặc yêu cầu.Có thể nêu một số bước mà CTCK phải
làm khi thực hiện nghiệp vụ này như sau:
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 9 Lớp Tài Chính Công K46
Công ty
chứng
khoán
Nhận
yêu cầu
quản lý
Ký hợp
đồng
quản lý
Thực
hiện
hợp
đồng
quản lý
Thanh
lý hợp
đồng
Khách
hàng
Chuyên đề thực tập tốt nghiêp
Trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư, CTCK sẽ nhận được phí quản
lý bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên số lợi nhuận thu về cho khách
hàng. Hoạt động này cũng góp phần tăng uy tín và phát triển các hoạt động
khác như lưu ký, thanh toán, tư vấn.
Ngoài các hoạt động trên, CTCK còn thực hiện các hoạt động khác có
tính chất phụ trợ, góp phần thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi ích của khách
hàng như:
+ Lưu ký chứng khoán: Là việc lưu giữ chứng khoán của khách hàng
thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định có tính chất bắt
buộc trong giao dịch chứng khoán bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị
trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ. Khách hàng phải mở tài khoản
lưu ký chứng khoán tại CTCK (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức
ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình
thức chứng chỉ vất chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho
khách hàng, CTCK sẽ thu được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí rút
và phí chuyển nhượng chứng khoán. Lưu ký chứng khoán có mối quan hệ
chặt chẽ, không thể tách rời đối với hoạt động môi giới chứng khoán.
+ Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): Xuất phát từ việc
lưu ký chứng khoán cho nhà đầu tư, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ
tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho
khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
+ Dịch vụ hỗ trợ tín dụng: Ngoài hoạt động môi giới chứng khoán,
CTCK còn triển khai các dịch vụ hỗ trợ tín dụng nhằm tăng khả năng kinh
doanh chứng khoán cho nhà đầu tư là khách hàng của CTCK như dịch vụ cho
vay cầm cố chứng khoán, dịch vụ cho vay bảo chứng, dịch vụ cho vay chiết
khấu chứng khoán…
Sinh viên Nguyễn Quốc Huy 10 Lớp Tài Chính Công K46

nâng cao chất lượng các sản phẩm gia vị chinsu trên thị trường hà nội


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "nâng cao chất lượng các sản phẩm gia vị chinsu trên thị trường hà nội": http://123doc.vn/document/1052292-nang-cao-chat-luong-cac-san-pham-gia-vi-chinsu-tren-thi-truong-ha-noi.htm


Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
các cửa hàng và siêu thị. Trong hoàn cảnh đó nhà sản xuất phải đảm bảo
chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, nếu
không họ sẽ mất ngay khách hàng vào tay đối thủ cạnh tranh. Ngay cả
chất lượng và mức độ dịch vụ ngày hôm nay là có thể chấp nhận được
thì ngày mai đã không còn chấp nhận được nữa. Nói như vậy để thấy
được tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ và dịch vụ. Những
người tiêu dùng ngày nay có trình độ học vấn và yêu cầu cao hơn nhiều,
điều đó đồng nghĩa là các nhà sản xuất phải nâng cao hơn nữa tính năng
cũng như chất lượng của sản phẩm, dịch vụ. Hoạt động thực tiễn của
những tập đoàn lớn như Toyota, Sony và những đại lý bán lẻ siêu
hạng( marks spencer, L.L.Bean ) đã góp phần nâng cao những đòi hỏi về
chất lượng của sản phẩm. Sự thu hẹp nhiều ngành sản xuất ở Hoa Kỳ
như ô tô, máy ảnh, hàng điện tử gia dụng là một bằng chứng hùng hồn
về những hãng cung ứng hàng chất lượng trung bình đã mất đặc quyền
kinh doanh trên thị trường mục tiêu của mình, khi bị các đối thủ cạnh
tranh mạnh hơn tấn công. Để sống sót và chiến thắng trên thị trường các
doanh nghiệp cần phải áp dụng chiến lược kinh doanh mới, lấy khách
hàng làm trung tâm và cung ứng những giá trị hảo hạng như họ mong
đợi.
Hiện nay vẫn còn những công ty nghĩ rằng công việc của bộ phận
marketing là tìm kiếm khách hàng và nếu không lôi kéo được khách hàng
thì đã vội kết luận là những người làm Marketing của mình kém cỏi.
Nhưng họ đâu có biết rằng khách hàng không chấp nhận sản phẩm của
họ là vì chất lượng của sản phẩm đó không đáp ứng được nhu cầu của
họ. Cho dù là bộ phận Marketing giỏi nhất thế giới cũng không thể bán
được những sản phẩm có chất lượng kém hay không đáp ứng được nhu
cầu của bất kỳ khách hàng nào. Bộ phận Marketing chỉ có thể phát huy
được hiệu quả trong các công ty mà các phòng ban và toàn thể cán bộ
công nhân viên đều cùng chung sức để thiết kế và thực hiện một hệ
thống đảm bảo giá trị cho khách hàng hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh.
Việc đảm bảo chất lượng sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm
được chi phí. Cách nghĩ xưa kia của các doanh nghiệp là việc đạt chất
lượng cao hơn sẽ đòi hỏi chi phí nhiều hơn và làm chậm tốc độ sản xuất.
Nhưng thực ra chất lượng được cải tiến nhờ học được cách “ làm mọi
việc đúng ngay từ đầu ”. Chất lượng không phải do kiểm tra mà có, mà
phải được tạo ra trong thiết kế. Khi mọi việc được làm đúng ngay lần đầu
thì sẽ loại bỏ được nhiều khoản chi phí phát sinh như sửa chữa, bảo
dưỡng… , đó là chưa kể đến chuyện mất tín nhiệm với khách hàng.
Motorola là một ví dụ điển hình, trong năm năm vừa qua việc đảm bảo
chất lượng đã tiết kiệm được 700 triệu USD chi phí sản xuất. Tiết kiệm
được chi phí là một chuyện nhưng vấn đề quan trọng hơn là Motorola đã
tạo được uy tín với khách hàng. Nhưng cũng phải thấy rằng đảm bảo
chất lượng không là chưa đủ mà phải liên tục cải tiến chất lượng bởi vì
người mua ngày càng có những yêu cầu cao hơn. Và chất lượng tốt
chưa hẳn đã đem lại ưu thế cạnh tranh, đặc biệt khi các đối thủ cạnh
tranh cũng nâng cao chất lượng của họ với mức độ tương đương. Ví dụ
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
như hãng hàng không Singapore Airlines nổi tiếng là hãng hàng không tốt
nhất thế giới. Tuy nhiên các hãng hàng không đối thủ cạnh tranh mới đây
đã thu hút được một phần khách hàng lớn hơn khi họ đã thu hẹp được
khoảng cách giữa chất lượng dịch vụ của mình với chất lượng dịch vụ
của hãng Singapore.
Nói tóm lại cuộc chạy đua về chất lượng không thể cứu vãn nổi một
sản phẩm tồi. Sản phẩm, dịch vụ kém chất lượng trước sau gì cũng bị
khách hàng từ bỏ và tìm đến những sản phẩm có chất lượng tốt hơn.
Qua đó ta có thể thấy được vai trò của chất lượng sản phẩm quan trọng
như thế nào, nó là chìa khoá dẫn đến thành công cho doanh nghiệp biết
tận dụng triệt để yếu tố này.
3. Thực trạng về công tác quản lý chất lượng ở Việt Nam
Từ sau năm 1986 đến nay cùng với quá trình chuyển nhanh nền
kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh cũng được mở rộng, các tiềm năng con
người được khơi dậy. Quyền lợi người tiêu dùng và khách hàng ngày
càng được đề cao và được pháp luật bảo vệ.Tình hình mới này đòi hỏi
sự thay đổi trong nội dung và phương pháp tiến hành quản lý chất lượng
sản phẩm
Có thể nói rằng văn bản đầu tiên quyết định sự đổi mới các hoạt
động quản lý chất lượng sản phẩm trong thời kỳ mới là chỉ thị ngày 6
tháng 8 năm 1989 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về các biện pháp cấp
bách nhằm củng cố và tăng cường công tác quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm hàng hoá. Trong đó nêu rõ và biểu dương nhữnh tiến bộ
về chất lượng và công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong những
năm gần đây. Đồng thời cũng phê phán hiện tượng chất lượng kém
không đáp ứng nhu cầu thị trường . Tiếp theo là pháp lệnh đo lường do
hội đồng nhà nước ban hành 16 tháng 7 năm 1990 và pháp lệnh chất
lượng hàng hoá được công bố ngày 2 tháng 1 năm 1991. Đó là những
văn bản quan trọng thể hiện quan điểm nhận thức của lãnh đạo nhà
nước về chất lượng sản phẩm. Từ đó ta thấy được chất lượng sản phẩm
đã trở thành vấn đề mang tính vĩ mô và các doanh nghiệp cũng cần có
thái độ nghiêm túc về vấn đề này. Đặc biệt cuối năm 1999 đầu năm 2000
với việc đổi mới sâu sắc văn bản pháp lệnh nhà nước về chất lượng
hàng hoá đã đánh dấu bước ngoặt trong công tác quản lý chất lượng sản
phẩm. Văn bản này đã có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 07 năm 2000.
Điều đó tạo điều kiện cho việc đổi mới hoạt động quản lý chất lượng sản
phẩm trong giai đoạn mới.
Những cải tiến bước đầu về quản lý chất lượng sản phẩm đã được
triển khai từ những cơ quan nhà nước đến các cơ sở kinh doanh. Điều
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
đó đã đem lại những sắc thái mới, tạo ra sự phong phú đa dạng cho thị
trường và tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến về nhận thức của
các nhà lãnh đạo, các cấp quản lý và các nhân viên trong các doanh
nghiệp về công tác quản lý chất lượng sản phẩm
Không một nhà lãnh đạo doanh nghiệp nào còn nghi ngờ về yếu tố
cạnh tranh của chất lượng sản phẩm. Đó là sự sống còn của doanh
nghiệp. Đặc biệt với các doanh nghiệp muốn vươn ra thị trường quốc tế.
Để cạnh tranh về chất lượng với các doanh nghiệp nước ngoài quả là
khó khăn khi mà các doanh nghiệp nước ngoài có trình độ khoa học và
kỷ luật lao động rất cao. Nhưng điều đó không có nghĩa là không làm
được. Trong thời gian vừa qua cùng với những đổi mới quan trọng về
công tác quản lý vĩ mô, hệ thống quản lý chất lượng nhà nước đã được
thành lập và hoạt động tương đối có hiệu quả. Điều đó mở ra một tương
lai tươi sáng cho hàng hoá nước ta có thể cạnh tranh với hàng hoá nước
nhoài. Đặc biệt là trong thời gian sắp tới khi nước ta mở cửa hội nhập với
nền kinh tế thế giới (WTO). Đây là lúc chúng ta nhìn nhận những mặt yếu
kém và khắc phục nó để kịp thời hội nhập với thế giới. Nếu không với tốc
độ phát triển chóng mặt như ngày nay nền kinh tế nước ta sẽ bị bỏ lại
sau lưng cùng với sự nghèo nàn và lạc hậu. Trong những năm gần đây
trước những đòi hỏi khách quan cần thiết phải nâng cao nhận thức và tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế. Tổng cục
tiêu chuẩn đo lường chất lượng phối hợp với các tổ chức quốc tế đã đề
ra rất nhiều chương trình đào tạo, huấn luyện và các cuộc hội thảo về
chất lượng sản phẩm nhằm giúp các doanh nghiệp thấy rõ tầm quan
trọng của chất lượng sản phẩm trong hoạt động kinh doanh. Mà tiêu biểu
là tiêu chuẩn chất lượng ISO – 9000. Tiêu chuẩn này được biết đến ở
Việt Nam từ những năm 1989 – 1990. Nhưng việc tổ chức nghiên cứu
tuyên truyền phổ biến và áp dụng vào các doanh nghiệp Việt Nam có thể
nói là chậm chạp. Cho đến những năm 1995 – 1996 mặc dù đã qua hơn
nửa thập kỷ nhưng hầu hết các doang nghiệp không biết ISO – 9000 là
gì. Ngay cả trên phương tiện truyền thông còn nhầm lẫn ISO – 9000 với
tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá. Các doang nghiệp không biết làm thế
nào để áp dụng tiêu chuẩn này hay ai sẽ là ngưòi tư vấn, cấp giấy phép
cho họ. Thực trạng về nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam được
thể hiện qua kết quả điều tra ban đầu của Uỷ ban kinh tế xã hội Châu Á
thái binh dương ( gọi tắt là ESCAP ).
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
Kết quả điều tra ban đầu nhận thức về tiêu chuẩn ISO – 9000
TT Tên doanh nghiệp Sản phẩm chính
Số lao
động
Nhận thức về
ISO-9000
1 XN dệt len Sài Gòn Quần áo len dệt 400 không
2 Công ty Thiên Tân Chăn len mỏng 80 không
3 HTX may Tiến Bộ Quần áo may sẵn 200 Rất ít
4 Nhà máy dệt Tân Tiến Khăn ăn, khăn mặt 60 rất ít
5 XN thảm len Đống Đa Thảm len, may mặc 510 không
6 Công ty TNHH Ngọc
Phương
Quần áo may sẵn 125 rất ít
7 Công ty TNHH Đại
Phong
May mặc 217 không
8 Trung tâm may Kiến An Con giống nhồi
bông
417 rất ít
9 Công ty HERPO Quần áo may sẵn 170 không
10 Công ty TNHH Hiệp
Hưng
Thêu len, may sẵn 600 không
11 Công ty TNHH Nam
Thanh
Hàng dệt len 200 không
Từ bảng kết quả điều tra ban đầu ta thấy nhận thức của các doanh
nghiệp về vấn đề chất lượng sản phẩm là quá ít. Đó là một khiếm khuyết
lớn sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường nếu không sửa chữa kịp thời. Chất
lượng sản phẩm đã trở thành vấn đề cốt lõi sống còn của các doanh
nghiệp. Những sản phẩm có chất lượng kém sẽ không tồn tại được trên
thị trường, nó sẽ không được người tiêu dùng chấp nhận. Do đó doanh
nghiệp phải ý thức được rằng ngoài các yếu tố thoả mãn khách hàng
bằng các sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng với giá cả hợp lý thì việc phân phối nhanh, thuận lợi đến tay người
tiêu dùng được xem như yếu tố cấu thành nên chất lượng toàn diện.
Trong vài năm trở lại đây các doanh nghiệp đã nhận thức được vị thế
cạnh tranh của yếu tố chất lượng và đề ra mục tiêu chiến lược sản xuất
kinh doanh hướng vào chất lượng. Điều đó đã mang lại những kết quả
khả quan. Rất nhiều doanh nghiệp đã có chỗ đứng vững chắc trên thị
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
trường và sản phẩm của họ đã được khách hàng chấp nhận. Tính cho
đến nay đã có rất nhiều doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO – 9002.
Đó là điều đáng mừng của nền kinh tế nước ta.
II – Công ty Masan và sản phẩm gia vị Chinsu trên thị trường Hà Nội
1. Giới thiệu chung về công ty Masan
Công ty Masan có thể được coi là một tập đoàn mạnh ở trong
nước.Tập đoàn Masan được thành lập năm 1996 gồm15 công ty thành
viên do toàn bộ người Việt Nam quản lý. Do đó tập đoàn rất quan tâm
đến hình ảnh của mình qua các hoạt động kinh tế xã hội. Những nhà lãnh
đạo công ty đều là những người đã học và tốt nghiệp tại Liên Xô cũ trong
thời kỳ nền kinh tế Liên Xô chuyển sang cơ chế thị trường. Do đó họ rất
hiểu những cơ hội và thách thức của bước chuyển giao sang cơ chế thị
trường. Công ty Masan có tiềm lực tài chính khá mạnh và nguồn nhân
lực có chất lượng cao. Masan là nơi hội tụ khá đầy đủ các “anh hào’’ của
các tập đoàn đa quốc gia. Thanh nam châm thu hút nhân tài của Masan
không phải là mức lương hậu hĩ, vượt trội mà là một chí hướng mang
tính “ mầu cờ sắc áo’’.
Sự hợp tác để xây dựng một tập đoàn Việt nam lớn mạnh có khả
năng cạnh tranh ngang ngửa với các tập đoàng nước ngoài trong tương
lai. Ông Nguyễn Đăng Quang chủ tịch tập đoàn Masan nói: “Có một thứ
rất quan trọng mà các công ty đa quốc gia đóng góp cho nền kinh tế Việt
Nam đó là phương pháp và môi trường làm việc công nghiệp’’. Masan
thu hút được đội ngũ những người chuyên nghiệp vì người Việt Nam
ngoài nhà cửa, tiền lương họ còn mong muốn một chút gì đó mang tính
mầu cờ sắc áo. Sản phẩm chính của công ty là các loại gia vị, thực phẩm
ăn nhẹ như xúc xích, mì ăn liền. Ngoài ra công ty còn kinh doanh nhiều
mặt hàng khác nữa. Nhưng ở đề án này em chỉ trình bày riêng về mặt
hàng gia vị mang nhãn hiệu Chinsu của công ty Masan. Thương hiệu
Chinsu đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng trên thị trường Hà Nội.
các sản phẩm gia vị bao gồm nước mắm, tương ớt, nước tương đã được
nhiều gia đình sử dụng trong các bữa ăn hàng ngày như một phần không
thể thiếu. Công ty Masan đã chinh phục được người tiêu dùng trên thị
trường Hà Nội bằng chất lượng sản phẩm và cung cách phục vụ. Công ty
luôn đặt lợi ích cuả khách hàng lên trên hết, ban lãnh đạo công ty cùng
đội ngũ công nhân viên luôn lao động hết mình vì lợi ích của công ty và
khách hàng vì công ty luôn ý thức rằng chỉ có giữ chân được khách hàng
thì mới đứng vững được trên thị trường, mà muốn giữ chân khách hàng
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
thì phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ổn định và đồng đều. Đó là
phương châm sản xuất kinh doanh của công ty.
2. Những hoạt động sản xuất của công ty Masan trong thời
gian qua và quá trình xây dựng thương hiệu Chinsu trên thị trường
Hà Nội
2.1. Tổng quan về thị trường gia vị trong nước
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như ngày nay việc đưa sản phẩm
ra thị trường gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là có những yếu tố ta
không thể lường trước được. Như đợt cúm gia cầm vừa qua tưởng
chừng như vô hại nhưng thục tế nó đã đem lại những tổn thất khá lớn
cho các doanh nghiệp. Các sản phẩm mì gói cao cấp Kim chi, Chinsu của
công ty Masan ghi ngay trên bao bì : “ Đặc biệt sử dụng bột mì cao cấp
có trộn lòng đỏ trứng gà nguyên chất ’’ đã phải hạ giá bán 200 đồng/1 gói
từ mùng 1 tháng 2 đến 15 tháng 2 năm 2004 do ảnh hưởng của dịch cúm
gia cầm. Điều đó cho thấy những bất lợi từ thị trường là rất lớn, nó sẽ
đánh gục ngay những công ty thiếu bản lĩnh. Nguy cơ từ phía đối thủ
cạnh tranh cũng luôn tiềm ẩn. Hiện nay trên thị trường các loại bột, viên,
nêm gia vị tạo hương bún bò, phở gà, bún mắm… của hàng chục công
ty có tên tuổi được đóng gói bao bì thật bắt mắt bán ở siêu thị thoáng mát
lịch sự chỉ 2000 đồng đến 3000 đồng một gói. Sự chênh lệch về giá
không đáng kể, do đó giá không còn là công cụ cạnh tranh hiệu quả nữa.
Các doanh nghiệp cần phải tìm cho mình một hướng đi mới, có lẽ chú
trọng nâng cao và cải tiến chất lượng là một giải pháp thích hợp.
Theo các nhà sản xuất thì nhu cầu tiêu thụ ở thị trường gia vị hiện
nay vẫn còn là ẩn số với các nhà kinh doanh. Sản lượng 200 đến 400
triệu tấn hạt nêm 1 năm của các nhãn hiệu lớn như Knor, maggi,
Ajinomoto……với chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên khắp cả nước tưởng
chừng như đã đẩy mức tiêu thụ đến chỗ bão hoà. Nhưng thực tế cho
thấy thị trường vẫn còn chỗ trống bởi chỉ sau 1 năm ra nhập thị trường
nhãn hiệu Chinsu cũng tìm được chỗ mới để chen chân với mức độ phát
triển tăng gần 100% sau mỗi quý. Bên cạnh đó các cơ sở sản xuất nhỏ
cũng tăng bình quân từ 20% đến 30% trong năm qua.
Hai yếu tố chính được các công ty lớn tập trung khai thác và xây
dựng thương hiệu, giành thị phần là nâng cao chất lượng và tiếp thị, kinh
doanh có bài bản. Điểm lại sự ra mắt của hạt nêm Knor, Maggi, Ajingon
và mới nhất là Chinsu ta sẽ thấy rõ điều này. Ông Nguyễn Đăng Quang
tổng giám đốc công ty Masan, đơn vị tham gia kinh doanh nhãn hiệu
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
Chinsu nói :“Ba yếu tố để một nhà kinh doanh có thể tự tin bước vào
cuộc cạnh tranh gia vị hiện nay là khẩu vị, công nghệ và hệ thống phân
phối. Nhưng trước hết phải có sản phẩm thực sự có chất lượng’’. Điều đó
cho thấy bản thân lãnh đạo công ty Masan rất chú trọng đến chất lượng
sản phẩm.
Nhìn vào số lượng trên 100 nhãn hiệu gia vị lớn nhỏ ở các địa
phương trên cả nước nhiều người dễ lầm rằng mọi nhu cầu tiêu dùng
đều đã được đáp ứng. Nhưng thực tế theo đánh giá của các nhà kinh
doanh mức tiêu thụ gia vị trong mỗi nghành chỉ ở mức dưới trung bình.
Ví dụ với dân số 80 triệu người tiêu thụ nước tương của Việt Nam mới
chỉ trên 10 triệu lít. Bình quân chưa đến 1chai/ 1 người/ 1 năm. Trong khi
đó con số này ở các nước khác là 2 đến 3 chai/1người/1 năm. Trong mỗi
nhóm mặt hàng những nhà sản xuất có thương hiệu vượt trội khẳng định
uy tín toàn quốc chưa nhiều mà chủ yếu thể hiện ở lợi thế địa phương.
Do vậy gần đây xuất hiện xu hướng cạnh tranh đặc sản khá rõ. Như
nước mắm Nha Trang cùng với Phú Quốc, Phan Thiết đang giành lấy thị
trường ở các đô thị lớn. Các công ty ở miền bắc như Long Vân cũng
vượt cả ngàn cây số đưa sản phẩm vào ra mắt người tiêu dùng phía nam
mà chẳng hề e sợ các nhãn hiệu Hưng thịnh, Thanh Hà…… Ngay cả với
thị trượng có nhiều nhãn hiệu lớn như Hà Nội, công ty Masan cũng phải
tìm nét mới bằng cách bổ xung thêm các vi chất VitaminA, chất sắt,
iốt… vào tương ớt để gây sự chú ý của khách hàng.
Theo đơn đặt hàng của một công ty liên doanh một công ty nghiên
cứu thị trường đã tiến hành khảo sát 20000 người tiêu dùng và các nhà
hàng trong năm 2003. Họ công bố : Thị trường Nước tương ở Việt Nam
hiện nay mức tiêu thụ khoảng gần 10 triệu lít/ năm. Trong đó 30% tiêu thụ
ở các nhà hàng, quán ăn và 70% tiêu thụ ở các hộ gia đình. Sự thay đổi
thị phần giữa các nhãn hiệu không nhiều. Nam Dương chiếm lượng tiêu
thụ lớn nhất với trên 6 triệu lít/1 năm. Maggi, Chinsu… ở khoảng trên
dưới 1 triệu lít/1 năm. Các nhãn hiệu còn lại chiếm số lượng ít. Theo các
nhà kinh tế dự báo trong các năm tới nhu cầu sẽ tăng trung bình 30%
một năm. Đó là cơ hội cho các doanh nghiệp tăng sản lượng tiêu thụ và
mở rộng thị trường.
2.2. Những hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Masan
trong quá trình xây dựng thương hiệu Chinsu
Công ty Masan xuất hiện và kinh doanh khi trên thị trường đã có
nhiều đại gia tên tuổi trong lĩnh vực sản xuất gia vị. Tuy vậy với tiềm lực
tài chính và chiến lược kinh doanh hợp lý công ty vẫn tìm được chỗ đứng
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
trên thị trường, doanh thu cũng liên tục tăng trưởng. Để góp phần làm
nên thành công đó không thể không kể đến vai trò của các sản phẩm mới
được công ty tung ra gần đây. Trước hết ta hãy điểm lại các mốc ra đời
của sản phẩm Chinsu:
18/12/2002: Ra mắt nước tương cao cấp hiệu Chinsu
7/4/2003 : Tung ra mì gói Chinsu
1/10/2003 : Xuất hiện nước mắm cao cấp Chinsu trên thị trường
8/12/2003 : Giới thiệu hạt nêm Chinsu
Xen kẽ trong các đợt giới thiệu hàng mới là các chiêu thức tự làm
mới cho sản phẩm như tung ra nước tương có bổ xung Vitamin , i ốt và
chất sắt, tung ra các loại mì gói vị thịt heo, bò, gà khác nhau. Sắp tới sẽ
là các loại hạt nêm vị hải sản, nấm và các loại rau củ dinh dưỡng.
Thương hiệu Chinsu một cái tên nghe rất “tây’’, nó đã đem lại sắc
thái mới cho mỗi bữa ăn của người dân Việt Nam. Với thế mạnh về công
nghệ công ty đã tạo ra những sản phẩm có hương vị rất lạ và thơm ngon.
Với những nguyên liệu cao cấp kết hợp bao bì hiện đại và bắt mắt
Chinsu đã tạo ra sự tò mò cho khách hàng. Người tiêu dùng rất thích
những sản phẩm có cá tính và khác lạ. Về điều này thì công ty Masan đã
thành công khi tung ra nhãn hiệu Chinsu
Với thế mạnh là dòng sản phẩm cao cấp và có cá tính riêng nên
ngững sản phẩm gia vị mang nhãn hiệu Chinsu thường được bán ở các
siêu thị và các cửa hàng chuyên doanh. Nhưng trong những tháng cuối
năm 2001 hệ thống bán lẻ gia tăng mạnh mẽ. Điều đó đang gây sức ép
lên hệ thống phân phối của công ty. Ngay lập tức công ty đã cho xây
dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh 25 cửa hàng tiện nghi với phương thức
bán lẻ hoàn toàn mới. Và đến tháng 12 năm 2001 công ty đã khai trương
đồng loạt 25 cửa hàng. Kế hoạch phát triển của công ty Masan được
xem là có quy mô lớn về vốn đầu tư cũng như số lượng cửa hàng. Ban
giám đốc công ty dự kiến sẽ đầu tư cho toàn dự án khoảng 75 tỉ đồng để
đến năm 2003 xây dựng một mạng lưới 300 cửa hàng ở Thành phố Hồ
Chí Minh và Hà Nội. Ông Nguyễn Tử Long phó tổng giám đốc công ty
Masan cho biết : “ Hiện tại để có giá bán cạnh tranh với các siêu thị, các
tiệm tạp hoá hệ thống 25 cửa hàng của chúng tôi chấp nhận lỗ thời gian
đầu cho đến khi việc xây dựng thương hiệu thành công.
Những cửa hàng này hoạt động gần giống siêu thị nhưng mở cửa từ
6h sáng đến 12h đêm. Cách trưng bày hàng hoá được sắp xếp theo một
trật tự nhất định và hoàn toàn giống nhau. Cách thiết kế như vậy sẽ
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
mang lại tiện nghi cho khách hàng, tiết kiệm thời gian mua sắm. Masan
không giao hàng tận nơi mà chủ yếu dùng cung cách phục vụ, chất
lượng hàng hoá để lôi kéo khách hàng. Hiện nay sự phân cấp thị trường
đã khá rõ ràng, “miếng bánh’’ sẽ rơi vào tay kẻ khác nếu không biết phát
huy thế mạnh của mình. Do đó công ty đã tích cực xây dựng hệ thống
bán lẻ nhằm cạnh tranh với các siêu thị. Chi phí cho 25 cửa hàng hiện
đại này lên đến hơn 20 tỷ đồng nhưng kết quả đem lại không như mong
muốn và ban quản trị công ty đã phải cho đóng cửa dần các cửa hàng
này. Đến ngày 22 tháng 4 năm 2003 năm cửa hàng cuối cùng trong số
25 cửa hàng đã dừng hoạt động.
Thất bại này là do ban giám đốc đã không lường trước được xu
hướng tiêu dùng của người dân khi ra quyết định. Người tiêu dùng chưa
thực sự có nhu cầu sử dụng cửa hàng tiện nghi, thêm vào đó là sự cạnh
tranh rất mạnh của các cửa hàng tạp hoá. Đó là một trong những nguyên
nhân thất bại của dự án này. Tuy nhiên 25 cửa hàng này không đóng cửa
hẳn mà chuyển sang kinh doanh các mặt hàng nước tương, mì gói,
tương ớt…mang nhãn hiệu Chinsu của công ty.
Trước khi khai trương 25 cửa hàng tiện nghi Masan Mart tất cả các
thành viên hội đồng quản trị đã đọc rất kỹ các khảo sát và nghiên cứu về
thị trường bán lẻ ở Việt Nam. Nhưng rốt cục mô hình cửa hàng bán lẻ
kiểu Seven Eleven vốn rất thành công ở Thái Lan và một số nước Đông
Nam Á lại không trụ được ở Việt Nam. Ban lãnh đạo công ty đã tính toán
chi li từng bước khi đưa mô hình cửa hàng tiện nghi vào hoạt động.
Những bước chuẩn bị ban đầu khá bài bản, chuyên nghiệp: từ việc thiết
lập mối quan hệ với các nhà cung cấp hàng hoá đến đào tạo đội ngũ
nhân viên bán hàng và đầu tư cho việc chuyển hàng hoá kịp thời bằng
công nghệ tin học thông qua việc thiết kế một phần mềm quản lý riêng
biệt. Thế nhưng chỉ 7 tháng sau khi đưa vào hoạt động 80% số cửa hàng
của công ty phải đóng cửa do doanh thu không được như dự tính. Số
cửa hàng còn lại được đầu tư thêm hàng hoá, cách trình bày cũng bắt
mắt hơn và đặc biệt áp dụng nhiều chiêu thức khuyến mãi, nhưng doanh
thu cũng chỉ tăng được trong vài tuần. Những tháng kế tiếp doanh thu
mỗi cửa hàng không vượt qua con số 10 triệu đồng/ tháng trong khi chi
phí trả cho việc thuê mặt bằng và trả lương công nhân viên vượt qua dự
tính cho phép. Và kết quả là cái tên Masan Mart lặng lẽ rời bỏ thị trường.
Đã từ lâu người tiêu dùng Việt Nam quen với chợ, các cửa hàng bán đủ
các hàng hoá linh tinh mà những người mua là các bà nội trợ. Những
cửa hàng dáng vẻ sang trọng với các cô bán hàng mặc đồng phục, bảo
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
vệ trông xe miễn phí khiến người ta e dè vì giá có thể cao hơn giá ở
chợ. Về sai lầm này Ông Nguyễn Tử Long phó tổng giám đốc công ty giãi
bày : Chúng tôi đã khảo sát rất kỹ lưỡng thành phần đi chợ, mức chi tiêu
của các bà mỗi lần vào chợ nhưng lại quên mất rằng các bà đến các chợ
các cửa hàng mấy lần một tuần. Nhìn lại thất bại này ông Long nói bây
giờ đời sống đã khá lên, thu nhập tăng, thị hiếu người tiêu dùng cũng
thay đổi nhưng sự thay đổi ấy vẫn bị chi phối bởi các yếu tố thời gian.
Các siêu thị lớn phải mất 3 đến 5 năm vắng khách lúc đầu mới có được
lượng khách như hiện nay. Cũng phải mất ít nhất ngần ấy năm để người
tiêu dùng chấp nhận trả thêm cho mỗi món hàng 500 – 1000 đồng tức là
cao hơn giá chợ để đổi lấy sự tiện nghi. Bây giờ chưa phải là thời điểm
để các cửa hàng tiện nghi xuất hiện. Ông Nguyễn Đăng Quang chủ tịch
hội đồng quản trị Masan nhìn nhận : “giai đoạn thử nghiệm nhằm xác
định thị hiếu và cách mua sắm của người tiêu dùng đã qua, một số đối
tượng khách hàng mà chúng tôi nhắm tới chưa được khai thác thành
công như mong đợi, trong khi những đối tượng chưa được chú ý trên
thực tế lại là khách hàng thường xuyên’’.Nhưng điều quan trọng là
Masan không từ bỏ dự án, công ty sẽ đầu tư thêm vốn xây dựng thêm
các cửa hàng trung bình và loại bỏ những cửa hàng kém.
Bất ngờ lớn nhất đối với công ty sau 6 tháng hoạt động là các cửa
hàng Masan Mart trên những đường phố lớn nơi được hy vọng sẽ đạt
doanh số cao do người tiêu dùng xung quanh thuộc tầng lớp trung lưu thì
hàng hoá bán ra lại rất chậm. Ngược lại những cửa hàng ở khu dân cư
bình dân hoặc ký túc xá sinh viên lại có doanh thu tăng hơn dự kiến 15%
đến 30%
Cuộc khảo sát của Masan cho thấy khách hàng của những cửa
hàng ở những khu bình dân phần lớn là phụ nữ đứng tuổi, là người nội
trợ chính, người chủ “tay hòm chìa khoá” của gia đình. Hoá đơn mua
hàng của họ trung bình khoảng 50.000 đồng 1 người/1 lượt. Còn sinh
viên thì thấp hơn khoảng 30.000 đến 35.000 đồng và họ chọn chủ yếu
các mặt hàng tiện dụng như: mì gói, tương ớt, nước mắm … Khi khai
trương Masan nghĩ đơn giản những cửa hàng gần khu sinh viên chỉ để
khuyếch trương tên tuổi của mình nhưng bây giờ thì khác : “Chúng tôi sẽ
mở những cửa hàng cho sinh viên’’. Ông Quang nói. Ngoài ra Masan còn
có kế hoạch mở các cửa hàng ở gần các bệnh viện. Những cửa hàng
này sẽ mở cửa sớm hơn và đóng cửa muộn hơn và chỉ tập trung cung
cấp các mặt hàng thiết yếu.

khảo sát năng lượng tương quan positron – electron trong phân tử đồng oxit


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "khảo sát năng lượng tương quan positron – electron trong phân tử đồng oxit": http://123doc.vn/document/1052609-khao-sat-nang-luong-tuong-quan-positron-electron-trong-phan-tu-dong-oxit.htm


LỜI MỞ ĐẦU
Positron là phản hạt của electron được khám phá lý thuyết bởi Paul Dirac năm 1928, sau
đó được Carl D. Andersen quan sát thực nghiệm năm 1932. Và ngày 15 tháng 3 năm 1933, sau
khi tạp chí khoa học Mỹ chuyên đề vật lý xuất bản bài "electron mang điện dương" bởi Carl D.
Andersen của viện công nghệ California, lòch sử thực nghiệm positron bắt đầu.
Trong thực nghiệm huỷ positron, dựa vào đặc tính huỷ electron - positron mà positron có
ph
ạm vi ứng dụng rất lớn như: Sử dụng positron để phát hiện khuyết tật trong vật liệu bằng
phương pháp đo phổ thời gian sống, CT (Computed Tomography) trong công nghiệp để phát
hiện lỗ hổng vật liệu. Trong y học, positron được ứng dụng vào công nghệ máy PET (Positron
Emission Tomography) dùng phổ biến trong chuẩn đốn và theo dõi bệnh ung thư. Các kết quả
thực nghiệm được đo gián tiếp thông qua thời gian sống của positron hoặc xung lượng huỷ cặp
electron – positron trong môi trường khảo sát. Và những kết quả thực nghiệm này sẽ được giải
thích chính xác hơn nếu chúng ta xét đến tương tác electron - positron.
Từ những năm 50, đã có rất nhiều nhà khoa học áp dụng các lý thuyết lượng tử để giải
thích sự huỷ positron trong môi trường chất rắn nhưng hầu như rất phức tạp và không đạt kết quả
mong muốn. Ngày nay, phương pháp biến phân Monte Carlo đang được áp dụng rộng rãi cho
các hệ lượng tử như nguyên tử, phân tử, vật lý chất rắn. Phương pháp này tính toán đơn giản và
giải quyết tốt các vấn đề của thế giới vi mô. Vì vậy trong phạm vi khoá luận này, tôi áp dụng
phương pháp biến phân Monte Carlo trong mô hình Born - Oppenheimer để khảo sát năng lượng
tương quan electron - positron trong phân tử đồng oxit . Nội dung khóa luận gồm bốn chương:
Chương 1: Tổng quan về hệ positron - electron.
Chương 2: Phương pháp biến phân Monte Carlo lượng tử.
Chương 3: p dụng phương pháp VMC cho phân tử đồng oxit khi có positron.
Chương 4: Các kết quả tính toán.
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ HỆ ELECTRON - POSITRON
Electron là một trong những hạt cơ bản cấu thành nên vật chất, có phản hạt là positron.
Positron mang điện dương có cùng khối lượng, cùng spin, momen từ và độ lớn điện tích với
electron. Nếu positron gặp electron, chúng có xác suất huỷ cặp phần lớn tạo ra hai tia gamma
năng lượng 511 Kev.
1.1.Cơ chế liên kết positron với vật chất
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng một số nguyên tử và ion nguyên tử có thể liên kết
với một positron như là liti, heli, natri, canxi, magie, đồng, kẽm, bạc… Số nguyên tử này được
tìm thấy ngày càng nhiều. Và cấu trúc của các hệ này được xác đònh là lớn để positron có thể
thắng lực đẩy của hạt nhân và liên kết với các electron hoá trò. Một số hệ như là e
+
Be bao gồm
một positron chuyển động quanh nguyên tử beri phân cực. Trong khi trong các hệ khác e
+
Na,
e
+
Cu, e
+
O…có thể được mô tả tốt nhất bằng một positronium chuyển động quanh lõi mang điện
Na
+
, Cu
+
, O
+
… Ngoài ra một vài hệ có khả năng có hai positron đã được tìm thấy.
1.1.1.Positron liên kết với nguyên tử
Tương tác giữa nguyên tử và positron là đẩy nhau tại mọi điểm. Điều này thể hiện sự khó
khăn trong liên kết của nguyên tử với positron. Song đám mây điện tích electron của nguyên tử
gần positron có thể tự điều chỉnh làm cho tương tác giữa positron và nguyên tử là tương tác hút.
Khi đó đám mây electron khi này bò phân cực. Và nếu thế hút phân cực lớn hơn thế đẩy của hạt
nhân đối với positron thì trạng thái liên kết tồn tại.






Hình 1.1. Mô hình positron liên kết với nguyên tử, đám mây điện tích cuả electron ở gần
positron thay đổi
Khi th
ế ion của ngun tử I < 0,250 Hartree ( năng lượng liên kết của positronium) thì
positron chỉ liên kết với nguyên tử khi năng lượng liên kết của positron với nguyên tử lớn hơn
e
+

0,250 - I, ngược lại hệ positron- nguyên tử sẽ tách thành positronium và ion dương ( trạng thái
nguyên tử khi mất một electron )
1.1.2.Liên kết của positronium với lõi nguyên tử
Các electron hoá trò trong nguyên tử liên kết lỏng lẻo với hạt nhân. Và khi th
ế ion của
ngun tử I < 0.250 Hartree thì một trong các electron hoá trò này sẽ bò hút vào positron, tạo
thành một positronium ( kí hiệu P
S
). Positronium bao gồm một electron và một positron liên kết
với nhau, nó tương tự như nguyên tử hydro về mặt điện tích trong đó positron được xem như
proton. Positronium có khối lượng rút gọn bằng nửa khối lượng của electron, có bán kính bằng
hai lần bán kính của nguyên tử hidro. Do positron và electron đều có spin bằng ½ và mô men
quỹ đạo l=0 nên khi chúng kết hợp với nhau có thể hình thành hai trạng thái:
 Trạng thái spin đối song có momen góc l = 0 và spin toàn phần s = 0 được gọi là trạng thái
singplet, hình thành paraPositronium (p-Ps) có một trạng thái là
1
S
0
.
 Trạng thái spin song song có l = 0 và s = 1, được gọi là trạng thái triplet, hình thành
orthoPositronium có ba trạng thái:
3
S
-1
,
3
S
0
,
3
S
1.

Do vậy, xác suất hình thành orthopositronium là ¾ còn xác suất hình thành para positronium
là ¼.






Hình 1.2. Mô hình positron liên kết với nguyên tử, Ps bò phân cực do lõi mang điện tích
dương.
Positronium bò phân cực do tương tác Culong của lõi nguyên tử và có thể dẫn tới sự liên
kết của P
S
với lõi nguyên tử. Để Positronium liên kết với nguyên tử thì năng lượng liên kết của
positron với nguyên tử phải nhỏ hơn 0,250 - I.
1.2.Sự huỷ positron
Positron là phản hạt của electron, nên theo thuyết phản hạt trong cơ học lượng tử thì khi
positron gặp electron sẽ huỷ cặp với xác suất nào đó. Khi positron đi vào môi trường vật chất sẽ
e
-

e
+

va chạm với các electron, ion nút mạng và các phonon dao động mạng. Quá trình va chạm xảy
ra liên tiếp làm cho các positron nhanh chóng mất năng lượng và trở thành positron nhiệt. Quá
trình này được gọi là quá trình nhiệt hoá positron. Thời gian nhiệt hoá phụ thuộc vào năng lượng
ban đầu của positron. Theo Bergersen, Hautojarvi: positron có năng lượng khoảng 2 Mev có thời
gian nhiệt hoá nhỏ hơn 20 ps. Trong khi thời gian sống của positron trong kim loại là khoảng
200ps. Nên positron bò nhiệt hoá trước khi huỷ cặp.







Hình 2 : Quá trình huỷ positron.
Khi positron nhiệt gặp electron trong môi trường vật chất thì chúng có thể huỷ cặp ngay
lập tức, hoặc chúng kết hợp với electron hoá trò của nguyên tử trong môi trường vật chất tạo
thành P
S
. Nếu trạng thái spin của cặp huỷ là trạng thái singlet ( s = 0 ) thì quá trình huỷ chủ yếu
là huỷ

2
. Còn trạng thái spin của cặp huỷ là trạng thái triplet thì sự huỷ chủ yếu là huỷ

3
.
Nếu có mặt của một hạt thứ ba là electron hoặc hạt nhân nguyên tử của môi trường thì có thể
xảy ra quá trình huỷ

1
( theo đònh luật bảo toàn động lượng ). Trong đó trường hợp hủy cặp
sinh hai gamma là chủ yếu còn trường hợp sinh ra ba gamma và một gamma có xác suất rất nhỏ
nên có thể bỏ qua.

Huỷ

21
10



Khuếch
tán
Nhiệt hoá e
+

s
12
10



e
+

Nguồn e
+

CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP biến phân MONTE CARLO LƯNG TỬ
Mục đích: trình bày tổng quan về phương pháp biến phân Monte Carlo, cách áp dụng
phương pháp này cho hệ lượng tử, mô hình hàm Hamilton và hàm sóng thử cho hệ e - p.
Các nội dung chính:
 Nguyên lý biến phân.
 Phương pháp biến phân Monte Carlo.
 Quy trình thuật toán Monte Carlo lượng tử.
 Áp dụng phương pháp VMC cho hệ lượng tử.
 Xấp xỉ Hamilton.
 Hàm sóng thử.
2.1.Nguyên lý biến phân
Việc tìm lời giải gần đúng cho phương trình Schodinger của hệ nhiều hạt xuất phát từ
nguyên lý biến phân, được phát biểu như sau:
Giá trò trung bình của Hamilton
H
ˆ
được tính với hàm sóng thử 
t
không bao giờ thấp hơn
giá trò năng lượng trạng thái cơ bản 
0
của Hamilton
H
ˆ
được tính với hàm sóng trạng thái cơ bản

0
.
Từ nguyên lý biến phân ta thấy, luôn có khả năng tìm được một giới hạn trên đối với năng
lượng trạng thái cơ bản. Và nó là một phương pháp xấp xỉ tốt nhất trong việc tìm kiếm các năng
lượng trạng thái cơ bản.
Giả sử hàm sóng thử 
t
là hàm sóng trạng thái cơ bản của Hamilton thì khi đó giá trò trung
bình của Hamilton là:







drrr
drrHr
E
TT
TT
)()(
)()(
*
*
(2.1)
Và khai triển hàm sóng thử
T

là sự kết hợp tuyến tính các hàm riêng của hàm hamilton
có dạng:


n
nnT
rcr )()(

(2.2)
Thay (2.2) vào (2.1) ta được







nm
nmnm
nm
nmnm
drrraa
drrHraa
E
,
**
,
**
)()(
)()(


(2.3)




n
n
n
nn
a
Ea
E
2
2
(2.4)
Trong đó
n
E
là trò riêng của hàm riêng
n




n
E
với mọi n suy ra:

0

E
(2.5)
Phương pháp VMC trực tiếp áp dụng nguyên lý này. Trong đó chọn hàm sóng thử phụ thộc
vào các tham số biến phân, rồi thay đổi các tham số biến phân này để cực tiểu hoá năng lượng
trung bình. Nếu hàm sóng thử được chọn là tốt, có đủ bậc tự do biến phân thì kết quả đạt được
có độ chính xác rất cao.
2.2.Phương pháp biến phân Monte Carlo (VMC)
Trong vật lý chất rắn, phương pháp VMC thường mô tả mô hình hệ hữu hạn như mô tả một
ô mô phỏng hơn là mô hình hệ vô hạn. đây chúng ta chọn mô hình hàm Hamilton và hàm
sóng thử phù hợp cho hệ nhiều hạt, áp dụng nguyên tắc biến phân lên giá trò trung bình của hàm
hamilton:






drrr
drrHr
H
TT
TT
)()(
)()(
*
*
(2.6)
Để tìm năng lượng trung bình, ta phải thực hiện các phép tính tích phân trên (2.6). Tuy
nhiên việc tính tích phân này là rất phức tạp mà ta không thể tính toán bằng giải tích toán học.
Các phương pháp tích phân cổ điển như phương pháp Gauss-Legendre không còn phù hợp cho
hệ nhiều hạt. Hiện nay thuật toán lý tưởng để giải quyết vấn đề này là phương pháp VMC.
Phương pháp VMC gồm có 3 bước cơ bản:
Bước 1: Xây dựng hàm sóng thử
),(

r
T
cho hệ gồm N hạt ở vò trí
r = ( r
1
, r
2,
,r
N
) và phụ thuộc vào bộ tham số  = (
1
, 
2
, , 
N
)
Bước 2: Xác đònh giá trò trung bình của hàm Hamilton




drrrr
drrHr
H
TT
TT
)())((
)( )(
*
*


(2.7)
Bước 3: Thay đổi khoảng chạy nhỏ nhất của các tham số biến phân trong thuật toán
rồi quay trở lại bước một.
Sau khi thực hiện một loạt các bước chạy tham số
 , ta ghi nhận giá trò năng lượng và
phương sai tương ứng. Vẽ đồ thò biểu diễn sự phụ thuộc của năng lượng, sai số tương đối vào
các tham số. Sau đó tìm giá trò cực tiểu của năng lượng và sai số tương đối trong dải các tham số
biến phân. Kết quả thu được phụ thuộc vào dạng xấp xỉ hàm sóng và mô hình hàm Hamilton.
Do đó việc lựa chọn hàm sóng thử và mô hình hamilton cho ô mô phỏng là rất quan trọng,
quyết đònh mức độ thành công của việc mô tả đặc trưng của hệ vô hạn.
2.3. Quy trình thuật toán monte carlo lượng tử




















Hình 2.1. Sơ đồ quy trình thuật toán Monte Carlo lượng tử [4].
Thiết lập những tham số của hệ
Thực hiện bước dòch
chuyển
Chấp nhận hoặc loại bỏ
bước dòch chuyển
Thực hiện bước dòch
chuyển
Chấp nhận hoặc loại bỏ
bước dòch chuyển

Tích lũy và tính trung
bình các đại lượng

Những đặc trưng của hệ
Thiết lập
trạng thái
cân bằng
Thực
hiện tính
toán
Quy trình thuật toán Monte Carlo lượng tử gồm hai bước chính:
 Thiết lập trạng thái cân bằng Metropolis:
Thiết lập các electron ban đầu ở các vò trí ngẫu nhiên đồng nhất trong ô mô phỏng. Sau đó
dòch chuyển, mỗi bước dòch chuyển sẽ tạo ra các bước ngẫu nhiên mà chấp nhận hay loại bỏ
tuân theo thuật toán Metropolis sử dụng hàm sóng thử cho hệ nhiều hạt. Thực hiện một số bước
dòch chuyển đủ lớn để đảm bảo hệ đã đạt được trạng thái cân bằng và những electron được phân
bố ngẫu nhiên theo phân bố


2
R
T

. Đối với hầu hết những tính toán đã thực hiện thì cần sử
dụng 25% của tổng số bước dòch chuyển Monte Carlo của mỗi một electron để tạo ra những vò
trí cân bằng.
 Thực hiện tính toán Monte Carlo:
Khi hệ đạt được trạng thái cân bằng thì các đại lượng quan tâm như năng lượng của hệ
được tích luỹ. Mỗi một lần dòch chuyển được tạo ra thì các đại lượng quan tâm được tính và được
cộng dồn vào quá trình tổng. Khi tạo ra đủ những bước dòch chuyển, giá trò trung bình được tính.
2.4.Áp dụng phương pháp VMC cho hệ lượng tử.
Để áp dụng phương pháp này, đầu tiên ta xây dựng mô hình cho hệ lượng tử, sau đó ta lựa
chọn hàm sóng thử phù hợp với mô hình đó. Tiếp đến ta tính xác suất phân bố hàm sóng:



drr
r
r
t
T
2
2
)(
)(
)(p


(2.8)
Năng lượng trung bình được tính theo công thức:





drrr
drrHr
E
TT
TT
)()(
)()(
*
*


(2.9)
Khi sử dụng hàm sóng thư,û ta đònh nghóa một đại lượng mới là năng lượng cục bộ E
L
:
E
L
(r) =
)(
)(
r
rH
T
T



(2.10)




drr
drEr
E
T
LT
2
2
)(
)(


(2.11)
nên:


 drrErpE
L
)()(
(2.12)
Phương trình (2.12) là bước giải quyết đầu tiên của phương pháp VMC cho hệ lượng tử. Sau
khi làm gọn hàm năng lượng
)(E
L
r
ta thực hiện trên máy tính các bước sau:
Các bước thực hiện chương trình tính toán VMC
Đầu tiên cố đònh số bước Monte Carlo và số bước nhiệt hoá. Chọn giá trò khởi tạo cho r, các
tham số biến phân và tính
2
)(r
T

. Xác đònh kích thước bước nhảy để di chuyển hạt từ r đến vò trí
mới.
Khởi tạo của E
L
và phương sai tương ứng.
Bắt đầu tính toán Monte Carlo với một số chu trình cho trước
Bước 1: Gieo số ngẫu nhiên cho vector vò trí r.
Bước 2: Thực hiện bước thử Monte Carlo.
Bước 3: Di chuyển vò trí thử: r’ = r +, với  là một số ngẫu nhiên gieo trong khoảng [0, 1].
Bước 4: Lập tỉ số p(r)/p(r’), nếu:



)'(
)(
rp
rp
thì thiết lập bước nhảy mới ngược lại ta dừng tại vò trí này.
Bước 5: Nếu bước nhảy được thiết lập ta gán: r = r’.
Bước 6: Tính giá E
L
và phương sai ứng với giá trò của r này.
Khi phép thử Monte-Carlo kết thúc, ta tính giá trò trung bình của E
L
và độ lệch chuẩn tương
ứng.
2.5.Xấp xỉ Hamilton
Trong hệ e -p, các hạt đều mang điện nên chúng tương tác với nhau theo nhiều cơ chế:
lực Coulomb, tương tác spin-q đạo, tương tác từ. Để mô tả các tương tác phức tạp đó ta sử
dụng trường thế tương tác cặp
)(
ji
rrU 
với i  j, khi đó hàm Hamilton có dạng:




ji
ji
N
i
ii
N
i
rrUrV
m
H )(
2
1
)(
2
1
2
1
2

(2.13)
Để đơn giản ta sử dụng hệ qui chiếu nguyên tử, trong đó :
1


m

và hàm Hamilton được
viết lại như sau:

)(
2
1
)(
2
1
111
2
ji
N
i
N
i
N
i
i
rrUrVH 


(2.14)
Trong phương pháp biến phân Monte Carlo, người ta thường sử dụng xấp xỉ Born –
Oppenheimer [8] thì Hamilton cho hệ nhiều hạt gồm các electron, positron và các ion có dạng:

 













n
nm
m
mn
mn
i
pi
i
ij
j
ji
n
np
n
n i
ni
n
p
N
i
i
dd
eZZ
rr
e
rr
e
dr
eZ
dr
eZ
H
2
22
22
2
1
2
2
1
2
1
2
1
2
1
ˆ
(2.15)
r
i,
r
p
lần lượt là véc tơ tọa độ của electron thứ i và positron.
d
n
, d
m
là véc tơ tọa độ của ion thứ n và m.
Z
n
, Z
m
là điện tích của ion thứ n và m.
Số hạng đầu tiên trong (2.15) là tổng động năng của N electron, số hạng thứ hai là động
năng của positron; số hạng thứ ba là thế năng tương tác giữa electron và ion, số hạng thứ tư là
thế năng tương tác giữa positron và ion; số hạng thứ năm là thế năng tương tác giữa electron –
electron, số hạng thứ sáu là thế năng tương tác iữa positron – electron và số hạng cuối cùng là
thế năng tương tác giữa ion – ion.
2.6.Hàm sóng thử
Hệ e - p là hệ các hạt fermion không đồng nhất, trong đó có sự tương tác giữa các hạt với
nhau. Lực tương tác giữa electron và hạt nhân nguyên tử tỉ lệ nghòch với khoảng cách. Nên
trong tinh thể ta chỉ xét các nguyên tử lân cận với nguyên tử chứa electron mà ta đang khảo sát.
Khi đó hàm sóng toàn phần của hệ electron-positron có dạng như sau:






i
ij
j
ip
pe
Jij
ee
Jppii
rrrr )()()()(

(2.16)
Trong đó:
)(
ii
r

: hàm sóng của electron thứ i trong ô mô phỏng. Hàm sóng này được xấp xỉ như là
tổ hợp tuyến tính các hàm sóng quỹ đạo:






n
ninii
drCr




(2.17)


ni
dr




là hàm sóng đơn electron trong nguyên tử thứ n và tổng được lấy trên tất cả các
nguyên tử trong ô mô phỏng. C
ni
là hằng số chuẩn hóa.
)(
pp
r

là hàm sóng của positron, tương tự hàm sóng của electron nhưng chỉ khác ở các
tham số trong hàm sóng.
Còn
)(),(
ip
pe
Jij
ee
J
rr


là hệ số Jastrow thể hiện sự tương quan giữa electron-electron,
electron-positron.

thực trạng của các đối tượng tham gia hoạt động quảng cáo truyền hình ở việt nam


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "thực trạng của các đối tượng tham gia hoạt động quảng cáo truyền hình ở việt nam": http://123doc.vn/document/1052905-thuc-trang-cua-cac-doi-tuong-tham-gia-hoat-dong-quang-cao-truyen-hinh-o-viet-nam.htm


-Hãng quảng cáo nội-xí nghiệp (In-house Agency) có nghĩa là những hãng ở bên trong một
đại xí nghiệp. Nó là phân bộ quảng cáo của một xí nghiệp lớn, hoặc vốn có một chủ trương
quảng cáo riêng của mình hoặc không muốn bỏ tiền quảng cáo cho người khác.
3. Đài truyền hình.
Truyền hình được coi như môi thể đánh dấu thế kỷ 20.Kỹ thuật truyền hình không do một
người làm ra mà là kết quả của một chuỗi phát minh và cải tiến không ngừng trên nửa thế kỷ
từ 1890 đến 1950. Chỉ trong vòng 50 năm (1950-2000), truyền hình phát sóng đã trở thành
môi thể truyền thông đại chúng mà nội dung vô cùng phong phú, kỹ thuật vô cùng đa dạng và
phạm vi hoạt động vô cùng rộng lớn từ địa phương, khu vực cho đến tầm cỡ địa cầu.
Kể từ khi truyền hình xuất hiện, nó đã đoạt khách hàng của các môi thể cũ như báo chí, truyền
thanh và ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống xã hội, kinh tế, chính trị và giáo dục khắp nơi.
4. Khán thính giả, người tiêu thụ.
Đối với người chủ quảng cáo và hãng quảng cáo, khán thính giả truyền hình phải là khán giả
đích nhắm, nói cách khác, khán giả có ích. Họ là đối tượng của những cuộc điều tra định tính
và định lượng tiền quảng cáo và hậu quảng cáo.
Trước khi đi vào lĩnh vực đó, thiết tưởng chúng ta cũng nên có một cái nhìn tổng quát để xem
khán thính giả đó lá những ai, thói quen xem truyền hình của họ như thế nào và họ xem
truyền hình ra làm sao.

Toàn thể khán thính giả truyền hình chưa hẳn là đối tượng của người quảng cáo khi ta lý luận
trên quan điểm phân đoạn thị trường (market segmentation) và quần chúng đích nhắm
(target). Tuy nhiên khán thính giả nếu không thuộc vào một phân đoạn này thì cũng thuộc vào
một phân đoạn khác nên thái độ của họ đối với quảng cáo truyền hình là một điều mà các nhà
quảng cáo bắt buộc phải quan tâm.

Phần II: Thực trạng và xu hướng của quảng cáo truyền hình Việt Nam.
I. Ý nghĩa của quảng cáo truyền hình với đời sống xã hội.
1. Phản ánh thời đại.
Sự thành công của một thương điệp không chỉ phát xuất từ một ý nghĩ độc đáo hay
một kỹ thuật tối tân. Phim quảng cáo truyền hình phải biết đặt mình trong bối cảnh thời đại
của nó. Để thực hiện mục đích thương mại, người làm phim quảng cáo cần "bắt mạch "
được xã hội hiện tại, nhất là hiểu được lớp trẻ những người tiên phong trong việc chuyển
hướng lối sống và tiếp thu trào lưu mới. Màn ảnh nhỏ là nơi phản ảnh nhạy cảm những suy
nghĩ hành động của những người cùng chung thế hệ. Thương điệp truyền hình (và nhất là
những chương trình truyền hình) trước tiên ghi nhận (với đôi chút kịch hóa, lãng mạn hóa để
nhấn mạnh một vài điểm cần thiết) những đòi hỏi bức xúc của thời đại. Sau đó, nó phát lại
những tín hiệu đó cho xã hội.
Dưới áp lực của những đòi hỏi thuần túy thương mại, một chương trình về thời sự
chẳng hạn không còn giữ được tính cách trang trọng của nó nữa mà phải mang thêm tính chất
tiêu khiển để lôi cuốn người xem. Những chương trình có tính cách giáo dục và kiến thức phổ
thông phải được trình bày như một cuộc vui chơi hơn là học hành. Các nhà quảng cáo tìm đủ
cách để đưa lên màn ảnh nhỏ những câu trả lời phù hợp với ước mong của người tiêu thụ. Nói
cách khác, chỉ cần xem truyền hình, hầu như ta có thể nắm bắt được nhưng biến động của thời
đại.
2. Báo hiệu những chuyển hướng
Phản ánh thời đại chỉ là một chức năng của ngành quảng cáo. Quảng cáo còn báo
trước những chuyển hướng của xã hội. Thêm một điều nữa, sáng tạo, sự đổi mới chính là lẽ
sống của ngành quảng cáo vì loại quảng cáo " dậm chân tại chỗ " không thể nào lôi kéo sự
chú ý của người xem.
3. Sáng tạo thời trang
Riêng về thời trang, có thể quảng cáo truyền hình không hẳn sáng tạo ra nhưng ít nhất
cũng khám phá ra rất sớm và phổ biến nó trong quần chúng nhờ sức mạnh truyền thông của
nó. Một mẫu áo được mặc bởi một phóng viên hay tài tử trong phim truyện hay phim quảng
cáo ngày trước ngày sau đã có thể thấy được nhiều người mặc ngoài đường phố. Thông
thường, con người không muốn đứng bên lề thời trang vì e ngại trở thành chậm tiến, lỗi thời.
Quảng cáo truyền hình là phương tiện đưa họ trở về với đám đông. Những ảnh hưởng vừa kể
trên thâm nhập vào mỗi từng lớp xã hội và định hướng cho hành động của các thành viên.
4. Ảnh hưởng đến phong tục tập quán
Khán thính giả truyền hình thường cứ tưởng tượng những gì họ thấy trên truyền hình
là sự thực ngoài đời cả và suy diễn sự việc theo cung cách đó vì vậy tạo định kiến. Phụ nữ là
nhân vật trung tâm của các quảng cáo mỹ phẩm và đồ gia dụng trong khi đó đàn ông quảng
cáo đồ điện, địa ốc, rượu và thuốc lá. Đàn ông luôn luôn được trình bày ở tư thế giải thích,
thuyết minh cho kẻ khác trong khi phụ nữ ở trong tư thế nghe ngóng và tán thưởng. Riêng về
phim quảng cáo về ô-tô đàn ông thường giữ tay lái và phụ nữ chỉ đóng vai hành khách. Nhiều
trẻ em và thanh niên bị ảnh hưởng lối sống ngỗ ngược, không hợp với đạo đức truyền thống:
anh em tranh nhau đồ ăn, đi học muộn
Tuy thế, có các điểm ưu việt của truyền hình trong lĩnh vực giáo dục rất đáng
kể.Truyền hình trước tiên là một cuốn sách giáo khoa vô cùng sinh động. Quảng cáo truyền
hình về dụng cụ thể thao có thể dạy cho thiếu nhi niềm hy vọng và sự kiên trì khi đưa ra hình
ảnh một lực sĩ quyết tâm và can trường. Quảng cáo về một hiệu nước khoáng cũng gợi cho
chúng suy nghĩ về vấn đề bảo vệ môi sinh. Chương trình thám hiểm, văn hóa, y dược kèm
theo quảng cáo đều có giá trị giáo dục. Các chương trình quảng cáo giáo dục trẻ em về tình
cảm gia đình, phép kính yêu bậc trên như các quảng cáo của Knour, PS.
Còn về phụ nữ thì phải nói chỉ riêng việc quảng cáo khuyến khích sử dụng đồ dùng
điện khí trong nhà như bếp điện. lò siêu âm, máy giặt, đã đưa người phụ nữ ra khỏi cảnh
loanh quanh bếp núc, giặt giũ, vai trò mà xưa nay dù ở Đông hay Tây. Thoát được những trói
buộc đó, phụ nữ đã có thể có cơ hội học tập hoặc kiếm Phản ánh thời đại chỉ là một chức năng
của ngành quảng cáo. Quảng cáo còn báo trước những chuyển hướng của xã hội. Thêm
một điều nữa, sáng tạo, sự đổi mới chính là lẽ sống của ngành quảng cáo vì loại quảng cáo "
dậm chân tại chỗ " không thể nào lôi kéo sự chú ý của người xem.
Riêng về thời trang, có thể quảng cáo truyền hình không hẳn sáng tạo ra nhưng ít nhất
cũng khám phá ra rất sớm và phổ biến nó trong quần chúng nhờ sức mạnh truyền thông của
nó. Một mẫu áo được mặc bởi một phóng viên hay tài tử trong phim truyện hay phim quảng
cáo ngày trước ngày sau đã có thể thấy được nhiều người mặc ngoài đường phố. Thông
thường, con người không muốn đứng bên lề thời trang vì e ngại trở thành chậm tiến, lỗi thời.
Quảng cáo truyền hình là phương tiện đưa họ trở về với đám đông. Những ảnh hưởng vừa kể
trên thâm nhập vào mỗi từng lớp xã hội và định hướng cho hành động của các thành viên.
Khán thính giả truyền hình thường cứ tưởng tượng những gì họ thấy trên truyền hình
là sự thực ngoài đời cả và suy diễn sự việc theo cung cách đó vì vậy tạo định kiến. Phụ nữ là
nhân vật trung tâm của các quảng cáo mỹ phẩm và đồ gia dụng trong khi đó đàn ông quảng
cáo đồ điện, địa ốc, rượu và thuốc lá. Đàn ông luôn luôn được trình bày ở tư thế giải thích,
thuyết minh cho kẻ khác trong khi phụ nữ ở trong tư thế nghe ngóng và tán thưởng. Riêng về
phim quảng cáo về ô-tô đàn ông thường giữ tay lái và phụ nữ chỉ đóng vai hành khách. Nhiều
trẻ em và thanh niên bị ảnh hưởng lối sống ngỗ ngược, không hợp với đạo đức truyền thống:
anh em tranh nhau đồ ăn, đi học muộn
Tuy thế, có các điểm ưu việt của truyền hình trong lĩnh vực giáo dục rất đáng
kể.Truyền hình trước tiên là một cuốn sách giáo khoa vô cùng sinh động. Quảng cáo truyền
hình về dụng cụ thể thao có thể dạy cho thiếu nhi niềm hy vọng và sự kiên trì khi đưa ra hình
ảnh một lực sĩ quyết tâm và can trường. Quảng cáo về một hiệu nước khoáng cũng gợi cho
chúng suy nghĩ về vấn đề bảo vệ môi sinh. Chương trình thám hiểm, văn hóa, y dược kèm
theo quảng cáo đều có giá trị giáo dục. Các chương trình quảng cáo giáo dục trẻ em về tình
cảm gia đình, phép kính yêu bậc trên như các quảng cáo của Knour, PS.
Còn về phụ nữ thì phải nói chỉ riêng việc quảng cáo khuyến khích sử dụng đồ dùng
điện khí trong nhà như bếp điện. lò siêu âm, máy giặt, đã đưa người phụ nữ ra khỏi cảnh
loanh quanh bếp núc, giặt giũ, vai trò mà xưa nay dù ở Đông hay Tây. Thoát được những trói
buộc đó, phụ nữ đã có thể có cơ hội học tập hoặc kiếm việc làm thêm, phát triển được khả
năng và cá tính của mình.
5. Phổ biến một nền văn hóa thương nghiệp
Các đoạn phim quảng cáo được lặp đi lặp lại trở thành một động cơ thúc đẩy "văn
hóa" thương nghiệp. Cách đây không lâu, quảng cáo chỉ là phương tiện để khuyến khích
người ta tiêu thụ, nhất là trong thời đại kinh tế tiêu thụ hàng loạt mà mức tiêu thụ đồng nghĩa
với thước đo của phồn vinh. Khuynh hướng mới trong tiếp thị đã mở rộng tầm mắt cho người
quảng cáo. Ngày nay tiếp thị xoay quanh người mua, coi sự thoả mãn, và hơn thế nữa, hạnh
phúc của người này mới là mục tiêu của hành động tiếp thị.
6. Tạo thành những nếp sống
Cách sống của con người hiện đại đã thay đổi rất nhiều. Đã đành mỗi người có một lối
sống riêng vì cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ nhưng ta không tránh được hiện tượng
những người có cùng chung lối sống. Trong ngôn ngữ tiếp thị ta gọi nó là phân tiết của thị
trường. Khi mà chính quảng cáo phải phân tiết hóa, cá biệt hóa để ảnh hưởng đến những phân
tiết thị trường, nó sẽ ảnh hưởng đến quan điểm về giá trị của thành viên trong phân tiết đó và
phản ứng ngược chiều từ phía những người này đối với nó cũng không kém phần quan trọng.
II. Thực trạng của các đối tượng tham gia hoạt động quảng cáo truyền hình ở Việt Nam.
1. Chủ thể quảng cáo truyền hình ở Việt Nam.
Trong khi trên thế giới, nhất là ở những nước có công nghệ quảng cáo phát triển, các
doanh nghiệp đã và đang đau đầu trước câu hỏi liệu quảng cáo truyền hình đã hết thời? Thì ở
Việt Nam, quảng cáo truyền hình vẫn là một hình thức quảng cáo đem lại hiệu quả truyền
thông cao.
Chi phí cho quảng cáo truyền hình vẫn là khá cao so với các hình thức quảng cáo
khác. Nhưng khi truyền hình vẫn giữ thế mạnh trong lĩnh vực truyền thông như ở thị trường
Việt Nam thì dù chi phí làm một bộ phim quảng cáo lên đến cả tỷ đồng, tiền mua sóng truyền
hình khoảng: 30-50 triệu đồng cho30s quảng cáo, các doanh nghiệp vẫn đua nhau làm phim
quảng cáo. Vì họ cho rằng với những ưu điểm hình ảnh, âm thanh, màu sắc quảng cáo
truyền hình sẽ tác động đến mọi giác quan của khán giả, khách hàng để giúp cho sản phẩm
của doanh nghiệp được biết đến nhiều nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất tại Việt Nam.
Ước tính ở Việt Nam có 30,000 phim quảng cáo /năm. Mỗi ngày người xem được
thưởng thức gần 10 phim quảng cáo.
Hiện nay, ở Việt Nam, quảng cáo vẫn có vai trò lớn trong việc xây dựng, phát triển
thương hiệu của công ty, sản phẩm, có thể thấy rõ điều này qua các quảng cáo truyền hình
thành công của: X-Men, OMO, PS,
Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức nâng lên rõ rệt về
quảng cáo. Không chỉ các công ty lớn hăng hái tham gia vào thị trường quảng cáo truyền hình
mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tim đến với hình thức này. Tuy nhiên, do còn nhiều
hạn chế về khả năng tài chính nên nhiều phim quảng cáo tra tấn khách hàng ra đời hoặc là có
được phim quảng cáo hay nhưng không có điều kiện phát sóng thường xuyên để gây ấn tương
đối với khách hàng, không đem lại hiệu quả như ý và vẫn lép vế các đối thủ đại gia có lợi thế
về nguồn vốn.
Chính vì vậy, mới có thực tế thuyền nào, sóng nấy ở thị trường nước ta hiện nay. Các
doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp lớn thì lựa chọn các đài truyền hình trung ương, các
đài thành phố lớn. Còn doanh nghiệp nhỏ tận dụng các cơ hội do các nhà đài địa phương,
truyền hinh số, truyền hình cáp đưa ra.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có bộ phận chuyên trách đủ sức làm các
phim quảng cáo cho doanh nghiệp mình mà họ đi thuê các doanh nghiệp quảng cáo chuyên
nghiệp.
2.Các hãng quảng cáo truyền hình ở Việt Nam.
Một thực tế đáng tiếc là thị trường quảng cáo truyền hình Việt Nam, các công ty
quảng cáo trong nước nhiều (hàng ngàn công ty) nhưng chỉ chiếm 20% doanh thu từ thị
trường quảng cáo. Còn chỉ với trên dưới 30 công ty nước ngoài lại chiếm tới 80% doanh thu.
Thị trường quảng cáo truyền hình Việt Nam bị các công ty nước ngoài khống chế. Hầu
hết các công ty quảng cáo Việt Nam chỉ làm thuê cho các công ty nước ngoài ở một số công
đoạn.
Nhiều doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam thường ra đời theo kiểu thấy doanh nghiệp
khác làm ăn có lời lãi cũng tham gia vào thị trường kinh mà không điều tra thị trường, không
lên kế hoạch phát triển lâu dài. Do vậy, các doanh nghịêp này chỉ duy trì được vài ba tháng
đến một năm thì hoạt động rời rạc và đi đến giải thể.

Lĩnh vực quảng cáo đối với các doanh nghiệp Việt Nam hầu như còn mới mẻ, doanh
nghiệp trong ngành quảng cáo mới chỉ có trên dưới 10 năm hoạt động, không chỉ thiếu vốn,
máy móc, mà còn thiếu nhân lực, sự chuyên nghiệp.
Hiện nay, quay hình, dựng phim, kỹ xảo cho phim quảng cáo truyền hình, các công
ty quảng cáo Việt Nam phần lớn phải thuê chuyên gia nước ngoài sang hay đưa người mẫu ra
nước ngoài quay hoặc do các công ty nước ngoài tại Việt Nam thực hiện. Chỉ số ít các công ty
Việt Nam thực hiện được nhưng phim quảng cáo có tính chuyên nghiệp cao như: Storm Eye,
Đất Việt, Ánh Việt, Đông Tây Promotion, Visual.com.
Ở Việt Nam thiếu ngoại cảnh hoành tráng, công nghệ tráng rửa phim chưa cao. Để
quảng cáo cho dầu gội đầu X-Men, phía khách hàng yêu cầu phim quảng cáo phải thể hiện
được đẳng cấp sản phẩm, vì thế Storm Eye đã phải quay ngoại cảnh ở một sân bay quốc tế
nước ngoài, dàn diễn viên, đạo diễn, thuê bên ngoài,chi phí trọn gói lên đến 70,000 USD.
Hiện nay, Việt Nam rất thiếu diễn viên đóng phim quảng cáo chuyên nghiệp. Không
như phim truyện, phim quảng cáo không nhất thiết có sự hiện diện của các dễn viên nổi
tieeng. Điều quan trọng là tìm được sự đồng cảm với khán giả, làm họ thấy được mình là một
phần của giới tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên, các ngôi sao thường được mời đóng quảng cáo
như là một biểu tưởng cho sản phẩm: Mỹ Tâm-người mẫu quảng cáo cho Lipice, Sunsilk;
Lam Trường- quảng cáo cho Oishi, Phương Thanh- quảng cáo cho Coca-cola Các ngôi sao
không phải lúc nào cũng biểu đạt tốt và hình tượng của họ cần được chăm chút, quan tâm liên
tục vì là người của công chúng nên nếu có ảnh hưởng xấu sẽ gây thiệt hại lớn cho hình ảnh
doanh nghiệp, sản phẩm.
Các diễn viên chuyên nghiệp đóng quang cáo là cần thiết nhưng ngành công nghiệp
quảng cáo lại luôn đòi hỏi đổi mới, đã thiếu lại càng thiếu khi mà các gương măt luôn cần
thay đổi cho các chương trình quảng cáo sinh động lôi cuốn khán giả. Nhiều quảng cáo đã tạo
được ấn tượng về sự gần gũi khi mời các diễn viên nghiệp dư tham gia phim quảng cáo Song
thu nhập không ổn đinh trong khi công viêc đóng phim quảng cáo lại khá vất vả nên không
nhiêu diễn viên nghiệp dư gắn bó với công nghệ quảng cáo truyền hình.
Vấn đề ngân sách cho phim quảng cáo là vấn đề nan giải với các doanh nghiệp quảng
cáo Việt Nam. Chỉ với con số vài chục triệu đồng, các doanh nghiệp quảng cáo có thể làm
phim quảng cáo tĩnh, quay ở trong nhà rồi nhờ hậu trường ráp với ngoại cảnh hoặc thuê máy
quay phim nghiệp dư rồi tự biên, tự diễn mọi chuyên phải lựa cơm gắp mắm. Nhưng bên cạnh
đó, những năm gần đây, ở Việt Nam đã có những công ty đầu tư cả hàng trăm triệu đô la trang
bị máy móc, làm hậu trường cho phim quảng cáo. Hai tên tuổi phải kể đến là: HKPOST
HOUSE, PIXELGARDEN.
Gần đây, các công ty quảng cáo Việt Nam đã có những ý tưởng sáng tạo và cách thức
thực hiện chuyên nghiệp hơn dù còn nhiều hạn chế so với các doanh nghiệp nước ngoài. Các
chuyên gia đánh giá quảng cáo Việt Nam đang ở giai đoạn tương đương với thập niên 50 của
quảng cáo thế giới.
Khó khăn đã không ít nhưng các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam con chịu nhiều
ràng buộc từ phía luật pháp: hạn chế về thời gian, chi phí cho quảng cáo Do vậy thực tế thời
gian qua có hiện tượng quảng cáo trên truyền hình vẫn chưa đúng quy định:
Mặc dù trong năm 2004, Bộ Văn hoá Thông tin đã có văn bản chấn chỉnh những vi
phạm về hoạt động quảng cáo trên truyền hình nhưng tình hình vi phạm không giảm mà còn
có chiều hướng gia tăng. Cụ thể trong một số chương trình phim truyện hoặc Chào buổi sáng,
Dự báo thời tiết của Đài truyền hình Việt Nam chưa có dấu hiệu bằng hình ảnh, tiếng nói hoặc
chữ viết phân biệt mục quảng cáo với các chương trình nội dung.
Pháp lệnh quảng cáo quy định rõ trên phông sân khấu không được thể hiện quá hai sản
phẩm quảng cáo của một nhà tài trợ hoặc quá một sản phẩm quảng cáo của nhiều nhà tài trợ.
Nhưng Đài Truyền hình Việt Nam và một số Đài Phát thanh Truyền hình địa phương như Hà
Nội, Hà Tây thường xuyên vi phạm ở các chương trình vui chơi giải trí.
Thời lượng ngắt để quảng cáo cho mỗi chương trình vui chơi giải trí tối đa là 5 phút,
nhưng các chương trình Chiếc nón kỳ diệu, Hãy chọn giá đúng, Hành trình văn hoá, Ai là
triệu phú trên Đài Truyền hình Việt Nam, đã vượt quá mức thời gian này.
Chính phủ cũng đã ban hành quy định nêu rõ phải khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ, cho
nên mỗi sản phẩm quảng cáo sữa dành cho trẻ sơ sinh bắt buộc phải có câu: “Sữa mẹ là tốt
nhất cho sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ”, nhưng nhiều sản phẩm quảng cáo đã bỏ
quên.
Hay như chương trình “Sống khoẻ mỗi ngày”, đã quảng cáo nhiều loại thuốc chữa
bệnh bán theo đơn của thầy thuốc, gây nhầm lẫn cho công chúng về cách sử dụng thuốc.
Quảng cáo trên sóng phát thanh và truyền hình cũng là một nhu cầu hưởng thụ văn
hoá của nhân dân, và cũng là một hoạt động thương mại có lợi ích, nhưng hoạt động quảng
cáo phải đảm bảo tính nề nếp và tính nghiêm mình của pháp luật. Điều này đòi hòi từng đơn
vị nhà Đài phải nghiêm chỉnh quy định pháp luật về quảng cáo.
Không có những viên gạch đầu tiên làm sao có được ngôi nhà đẹp đẽ. Các doanh
nghiệp quảng cáo Việt Nam đang từng bước đi vào chuyên nghiệp hóa. Các doanh nghiệp
quảng cáo Việt Nam không thể mãi đứng ngoài nhường sân cho các doanh nghiệp nước ngoài
họ đã nhập cuộc và đang dần dần tìm được chỗ đứng xứng đáng.
3.Đài truyền hình.
Trong quá trình xã hội hóa, nhà đài vừa muốn có chương trình, hay để phát sóng
nhưng đồng thời cũng muốn có nguồn thu từ tiền tài trợ, quảng cáo do công ty truyền thông
khai thác.
Trong cuộc đàm phán để hợp tác giữa công ty truyền thông và đài truyền hình, các nhà
đài bao giờ cũng có ưu thế. Các đài mỗi năm tự đưa ra bảng giá nhung đơn giá của quảng cáo
trên sàn giao dịch khác với những con số công khai do nhiều nguyên nhân khách quan của đời
sống kinh tế.
Ở Việt Nam hiên nay, đài truyền hình vẫn độc quyền, các nhà đài có quyên rât lớn trên
thị trường quảng cáo truyền hình và truyền hình vẫn là môi thể hiệu quả để thực hiên các
chiến lược quảng cáo.
Hệ thống các đài truyền hình từ trung ương đến địa phương được trang bị các máy
móc hiện đại phục vụ đắc lực cho công tác chuyên môn thu phát sóng và cac dịch vụ truyền
hình như quảng cáo truyền hình. Các đài trung ương và thành phố lớn là môi thể mà các
doanh nghiệp lớn mạnh thường xuyên hợp tác trong các chiến lược quảng cáo. Còn các đài
địa phương là điểm nhắm của cac doanh nghiệp nhỏ hạn chế về khả năng tài chính.
Những năm gần đây, truyền hình kỹ thuật số, truyền hình cáp đã làm phong phú thêm
khả năng quảng cáo truyền hình đến được khán giả mục tiêu. Đặc biệt có những kênh chỉ
dành cho giải trí và các lĩnh vực chuyên biệt là nơi khách hàng dễ đón nhận các quảng cáo
hơn.
Các đài truyền hình luôn cập nhật những tiến bộ khoa học- kỹ thuật tạo ra nhiều hình
thức mới lạ, sáng tạo đáp ứng ngày càng nhiều và tốt nhu cầu của các doanh nghiệp cũng như
khán giả truyền hình.
4.Khán giả
Có không ít người nói vui rằng: quảng cáo truyền hình Việt Nam ngoài tác dụng
quảng bá thương hiệu, lôi kéo khách hàng còn có tác dụng dỗ trẻ nín khóc.
Không phải ngẫu nhiên tôi lại đưa nhận xét trên, quảng cáo truyền hình có ảnh hưởng
lớn đến đời sống xã hội như đã nêu ở phần I, mỗi tầng lớp, lứa tuổi có cảm nhận và thái độ
khác nhau nhưng nhạy cảm hơn cả là trẻ em . Trẻ con rất thích xem phim quảng cáo. Những
lời ca, những câu thoại, hình ảnh, hành vi rất dễ được trẻ nhập tâm, trẻ sẽ học theo cách đó và
ứng xử theo cách đó! Do vậy, có những quảng cáo đem đến cho trẻ những bài học bổ ích:
quảng cáo Mì Unif có cậu bé ngoan giúp mẹ mua hàng. Sữa Cô gái Hà Lan khuyến khích óc
sáng tạo của trẻ thơ khi giới thiệu hình ảnh hai em bé nghĩ ra đuợc ra một dây chuyền phức
tạp để lấy đồ chơi đang cất ở nơi rất cao. Sữa Nuti đưa ra hình ảnh đẹp của em bé bị bạn xấu
bắt nạt nhưng khi có cơ hội em không tìm cách trả thù mà vui vẻ tha thứ. Hãng S-Phone có
khúc nhạc du dương nói thay tình yêu của cô gái câm, vui nhộn với anh chàng hoa chân múa
tay kể chuyện hoặc ông bố đang chơi trò cưỡi ngựa với con thì được điện thoại trao tay. "Bản
lĩnh đàn ông" được bia Laser nhấn mạnh khi chàng trai dũng cảm dùng chai bia giả làm họng
súng uy hiếp bọn cướp và trở thành người hùng trong mắt cô gái Trẻ em cũng dễ học theo
những thói hư: như hình ảnh mẫu quảng cáo một em bé dùng sơn cọ vẽ đầy tường để cho
mẹ… lau vì nhà có sử dụng loại nước sơn tường “quá xịn” hay những em bé tha hồ nghịch
nước bẩn, chơi đá banh trên những mảnh vườn đầy bùn sình mà phụ huynh cũng không phải
lo sợ gì cả vì đã có “xà phòng diệt khuẩn”
Với những kiểu quảng cáo phản cảm, đã có khoảng 25% số người được chúng tôi hỏi
thử đã đưa ra ý kiến “không muốn xem lại mẫu quảng cáo ấy thêm một lần thứ hai” và
khoảng 15% bày tỏ ý định không muốn sử dụng sản phẩm mang hình thức quảng cáo đó.
Thanh niên rất nhạy cảm với quảng cáo, họ học theo cách ăn mặc, sử dụng đồ đạc,
phương tiện tạo nên các làn sóng tiêu dùng trên thị trường.
Còn người lớn thì không ít người bực mình khi đang coi một chương trình hay một bộ
phim mà bị chen ngang tới 10 phút quảng cáo, người ta có thể cầm remote bấm ngay qua
kênh khác mà không cần đắn đo như một phản xạ cũng tự nhiên như các mẩu quảng cáo tự
nhiên xuất hiện trong các chương trình họ đang coi.
Hầu hết mọi người cho biết họ không tẩy chay quảng cáo truyền hình nhưng quảng
cáo nên có nội dung phù hợp với văn hóa dân tộc, có tính giáo dục và phát sóng hợp thơi
điểm.
5. So sánh hiệu năng truyền thông của truyền hình với các phương tiện khác
Quảng cáo không chỉ được thực hiện bằng truyền hình mà còn thực hiện vói sự giúp
sức của nhiều môi thể (Media) khác, có tính chất đại chúng (Mass Media) hay phi đại chúng:
- Quảng cáo do những người không chuyên môn như truyền miệng như mách nước,
chỉ dẫn, đồn đãi trong gia đình, giữa thân hữu, thày trò.
- Quảng cáo bằng cách gói hàng (packaging), thương phẩm tự quảng cáo cho nó.
- Quảng cáo do những người làm tiếp thị qua những phương thức như thư tín trực
tiếp (Direct Mail hay DM), truyền đơn thương mại (Advertising Leaflet),bích chương dán
ngoài trời (Outdoor Poster) hay các tấm biển (Billboards) trên sân vận động , trên bến xe hay
trong các phương tiện giao thông ( Transportation Facilities) như trên xe điện, xe buýt, cạnh
các quầy bày hàng (Point Of Purchase hay POP), bằng cách in trong các tập danh mục điện
thoại (Telephone Directory) hay trong các phòng triển lãm (Exhibition, Show Room).
- Quảng cáo cá nhân bằng những môi thể điện tử như trò chơi điện tử (Games), môi
thể mới như truyền hình bằng mạng dây cáp (CATV), truyền hình vệ tinh (Broadcasting
Satellite), mạng Internet (Internet Site).
- Quảng cáo đại chúng bằng 4 môi thể truyền thông đại chúng : báo chí (Newspapers),
tạp chí (Magazines), truyền thanh (Radio) và truyền hình bằng sóng điện (Television).
Đồ biểu 2.3: Bảng so sánh ưu khuyết điểm của các môi thể quảng cáo
Môi thể Ưu điểm Khuyết điểm
Nhật báo -Địa bàn rộng
-Bao trùm nhiều lớp người
-Giá rẻ
-Co giãn
-Tạo phong trào nhanh chóng
-Tiêu thụ nhanh
-Không lâu dài
-Không bộc lộ ra ngoài
-Không gây ấn tượng mạnh vì trình
bày kém mỹ thuật
-Không lôi cuốn
Tạp chí -Trình bày mỹ thuật gợi chú ý
-Đối tượng độc giả rõ ràng
-Trình độ người đọc cao
-Giữ được lâu dài
-Có thể đưa ra tin tức có chất
lượng
-Mất nhiều thời giờ để gây phong
trào
-Thiên về hình ảnh
-Mất thời giờ để tạo ấn tượng
-Giá cả trung trung
Truyền hình -Uyển chuyển vì dùng được cả
hình ảnh, chữ viết, âm thanh, động
tác
-Được trọng vọng
-Tầm phóng xa
-Bao trùm phạm vi lớn
-Giá tương đối thì rẻ
-Cần lập đi lập lại
-Không dùng được lâu dài
-Giá tuyệt đối thì đắt
-Tản mạn thông tin
-Hỗn tạp
Truyền thanh -Tuyển chọn được đích nhắm
-Giá rẻ
-Nhu nhuyễn
-Trực tiếp trò chuyện với khách
hàng
-
-Không gây được ấn tượng
-Giới hạn trong vòng âm thanh
-Không tập trung sự chú ý của
người nghe
-Không được trọng vọng.
Ngoài trời (Outdoor) -Khu vực rộng
-Thay đổi được nhiều lần
-Giá rẻ
-Phương tiện phụ đáng lưu ý
-Có tính địa phương
-Không được trọng vọng (nhưng có
thể cải tiến)
-Thời gian chế tác lâu la
-Khó đo lường hiệu năng
Giao thông -Độ lộ xuất lớn
-Giá thành rẻ
-Có tính địa phương
-Bao trùm phạm vi hẹp
-Đích nhắm (hành khách) mà thôi
-Hỗn tạp
Trong tiệm (Indoor
POP)
-Tập trung sự chú ý lớn
-Có tính thuyết phục
-Giá rẻ
-Nhu nhuyễn
-Đích nhắm (khách đến tiệm) mà
thôi
-Dễ gây lẫn lộn
-Hỗn tạp
Xuất xứ : Baker, Monye, Sylvester, The Handbook of International Marketing
Communication, USA, 2000.
Ngoài sự cách biệt về giá cả, còn có sự cách biệt về hiệu năng. Truyền hình bằng sóng
điện không những là môi thể ít tốn kém nhất mà còn là môi thể có nhiều hiệu năng nhất trong
việc thông tin và thuyết phục khách hàng. Hãy thử so sánh thêm truyền hình với các môi thể
khác:
* So sánh với ấn phẩm
Nhật báo và tạp chí là những ấn phẩm, có khả năng truyền đạt qua chữ viết và hình
ảnh. Phần chính yếu của ấn phẩm vẫn là ký sự bằng văn tự, những hình ảnh tĩnh chỉ đóng vai
trò hỗ trợ. Truyền hình thì khác: chủ yếu là hình ảnh động. Bao nhiêu thứ như chữ viết, ngôn
ngữ, âm nhạc, âm hưởng bổ túc hiệu năng của hình ảnh. Nhờ hình ảnh, truyền hình mang
đến cho người xem sự sống động, hiện thực của việc xảy ra trước mặt. Điều đó không thể nào
tái hiện được qua nhật báo hoặc tạp chí. Đối với quảng cáo chủ (sponsor), truyền hình như
đem thương phẩm phô bày ra trước mắt khách hàng, mục tiêu của thương điệp.
Điểm khác nhau thứ hai giữa ấn phẩm và truyền hình là ấn phẩm có thể đem đi theo
trong xe, lên máy bay xem, giữ gìn lâu dài trong nhà, trong thư viện, chuyền tay người này
người kia xem. Thương điệp qua truyền hình thoặt đến, thoặt đi, không giữ gì được mà có giữ
được thì cũng khá cầu kỳ, mất công.
* So sánh với phóng thanh
Ban đầu, phóng thanh và truyền hình vẫn đi đôi với nhau. Hai môi thể có nhiều điểm
tương đồng như việc nghe và xem đều không phải bỏ tiền ra, và nhiều nhà sản xuất thương
điệp vừa làm ở đài phát thanh lẫn đài truyền hình. Có thể xem truyền hình như cánh tay nối
dài của phát thanh. Tuy nhiên, người ta có thể nghe ra-di-ô khắp mọi nơi, trong lúc đang lái
xe, khi làm cơm và ngay cả khi dang ngủ. Ngược lại, xem truyền hình dù có thể làm việc khác
cùng lúc nhưng điều đó đòi hỏi một sự tập trung tối thiếu cho nên nhiều thương điệp, nếu
phóng ra vào lúc người xem bận tay, thường có khuynh hướng chú trọng vào lời nói hơn là
hình ảnh.
Phát thanh và truyền hình hay dùng thủ pháp "quảng cáo liên hợp"(IC hay Integrated
Commercial), trong đó nội dung chương trình thông tin hay giải trí nói chung và thương
điệp quyện vào nhauthành một. Điều này không được cho phép trong trường hợp ấn phẩm
bởi vì trên mặt báo, quảng cáo và ký sự bắt buộc phải tách riêng. Lý do đơn giản là nếu một
ấn phẩm dùng lối quảng cáo hội nhập như thế, môi thể ấn loát sẽ mất sự tín nhiệm của độc
giả. Khán thích giả truyền hình dễ dàng hơn về vấn đề này, có lẽ vì trong suốt mấy ngàn năm,
vài trò "văn kiện chính thức" của chữ viết đã in dấu sâu đậm nơi người đọc.Hơn nữa, ta khó