LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông lâm sản": http://123doc.vn/document/1054214-mot-so-bien-phap-nham-day-manh-hoat-dong-xuat-khau-nong-lam-san.htm
sử dụng tốt các nguần lực, trao đổi thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến . đây là
yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá không những tăng sản xuất về
mặt số lượng mà còn tăng chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao đọng, tiết kiệm
chi phí lao động xã hội.
+ Bằng hoạt động xuất khẩu có thể tạo được vốn ngoại tệ góp phần quan
trọng trong việc cải thiện cán cân ngoại thương, cán cân thanh toán, tăng dự trữ
ngoại tệ, qua đó tăng khả năng nhập khẩu những sản phẩm hàng hoá mà trong
nước đang thiếu hay sản xuất với chi phí lớn.
+ Xuất khẩu thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại như dịch
vụ thương mại, bảo hiểm hàng hoá, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính tín
dụng quốc tế, kinh doanh du lịch .
+ Hoạt động xuất khẩu tăng cường hợp tác vào chuyên môn hoá quốc tế và là
một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động nâng cao uy tín của
quốc gia trên thị trường quốc tế
2.2 Đối với Việt Nam
Nước ta là một nước đi thẳng từ thực dân nửa phong kiến lên chủ nghĩa xã
hội không qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy mà nền kinh tế của ta
mang nặng tính tự nhiên, thể hiện ở chỗ hơn 80% dân số là nông nghiệp, các nguần
thu chủ yếu của chính phủ là từ nông nghiệp và khai khoáng. Nước ta so với các
nước khác trên thế giới là tụt hậu. Với một nền kinh tế nghèo nàn, cơ cấu lạc hậu,
chúng ta đã từng bị xếp vào loại mổttong những nước kém phát triển của thế giới.
Từ thực trạng đó, Đảng và nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới nền
kinh tế dất nước để đưa việt Nam trở thành một nước có thể “sánh vai với các
cường quốc năm châu”. Mục tiêu tổng quát của chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế xã hội nước ta đấn năm 2000 đã được xác định: “phấn đấu vượt qua tình
trạng đói nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc
phòng và an ninh, tạo điều kiện đưa đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ
21 ”. Tổng sản phẩm trong nước GDP đến năm 2000 tăng gấp đôi so với năm
1990 (theo chiến lược này trị giá xuất khẩu 5 năm 1996-2000 tăng gấp đôi thời kỳ
1991-1996, tức là 31 tỷ USD).
Để thực hiện được các mục tiêu trên, Việt Nam cần chú trọng vào các nội
dung sau:
- Cơ cấu lại nền kinh tế
- Thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá dất nước
- Hoà nhập nền kinh tế đất nước với nền kinh tế thế giới, hoà nhập nền kinh
tế trong nước với nền kinh tế thế giới không có con đường nào khác là phát triển
ngoại thương(mà nội dung chủ yếu là xuất khẩu và nhập khẩu).
Trong qua trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại cũng như công
cuộc công nghiệp hoá và hiện ddại hoá đất nước, đòi hỏi chúng ta phải có trang
thiết bị khoa học kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến cùng với các tri thức mới
của nhân loại. Muốn vậy chúng ta có thể nghiên cứu chế tạo (cũng như các Anh,
Pháp, Mỹ, Đức) hoặc chúng ta có thể tiến hành nhập khẩu (giống như các nước
công nghiệp mới Singapou, Hồng Công, Nam Triều Tiên, Đài Loan).
Với cách thứ nhất chúng ta sẽ mất một thời gian rất dài, những nước tiền tư
bản như Anh, Pháp thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá
phải trải qua trên một trăm năm. Mỹ và Đức là những nước đi sau, nhờ có những
tri thức mới của nhân loại nhưng cũng mất 80 năm mới thành công. Nhật Bản là
một nước “da vàng” rất gần với chúng ta, vừa tự nghiên cứ vừa tiếp thu các thành
tựu của các nước tiền tư bản mà cũng mất 50 năm.
Trong khi các nước đi trước phải trải qua một thời gian dài cho sự phát triển
của mình thì ngược lại các nước NICS, nhờ biết dựa vào các kiến thức cũng như
trang thiết bị vật tư kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của các nước đi trước(bằng con
đường nhập khẩu) họ chỉ mất có 10 năm để thực hiện xong quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá nền kinh tế đất nước(4 con rồng Châu Á).
Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra như vũ bão,
với kinh nghiệm các nước phát triển, rõ ràng các nước chậm phát triển như nước ta
không thể đi theo con đường các nước tiền tư bản đã đi vì nó đòi hỏi thời gian dài,
do vậy sẽ làm cho chúng ta đã lạc hậu lại càng lạc hậu hơn so với thế giới. Không
còn cách nào tốt hơn là ”đón đầu khoa học ” một cách phù hợp với tình hình kinh
tế xã hội của đất nước. Bây giời vấn đề đặt ra là: Muốn nhập khẩu được các vật tư
thiết bị khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến chúng ta cần có ngoại tệ mạnh.
Chúng ta lấy đâu ra ngoại tệ mạnh? Có 2 cách: Vay nước ngoài và xuất khẩu.
Từ trước tới nay chúng ta luôn nhập riêng do vậy các khoản nợ của nước ta
với các nước qua các năm cứ tăng dần nên không thể tiếp tục vay nợ nước ngoài
được nữa. rõ ràng xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam hiện nay. Chỉ có xuất khẩu chúng ta mới có ngoại tệ mạnh đẻ nhập khẩu
cũng như để trả nợ nước ngoài, làm tiền đề cho các khoản vay mới.
Nhận thấy tầm quan trọng của xuất khẩu, ngay từ đại hội VII Đảng ta đã đưa
ra chiến lược hướng ngoại, hàng xuất khẩu trở thànhmột trong ba mục tiêu lớn của
nền kinh tế đất nước. Trong xuất khẩu ta có thể chia thành ba nhóm : vốn, dịch vụ,
hàng hoá. Nước ta là một nước nghèo và kém phát triển trên thế giới, do vậy xuất
khẩu vốn ra nước ngoài là không đáng kể, chỉ bàng con đường tiểu ngạch không
chính thức của thành phần tư nhân. Còn dịch vụ thì chúng ta chưa có đủ khả năng
để đáp ứng nhu cầu cao của thế giới. Nói tóm lại, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu
là xuất khẩu hàng hoá.
BẢNG 1 - TỔNG GIÁ TRỊ XUẤT, NHẬP KHẨU TRƯỚC ĐỔI MỚI
(Theo giá hiện hành)
Đơn vị: Tr USD
Năm
Tổng kim
Ngạch XNK
Xuất khẩu Nhập khẩu
Tổng kim
ngạch
Tốc độ
tăng %
Tổng kim
ngạch
Tốc độ
tăng %
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1.246,8
1.540,9
1.630,0
1.846,6
1.652,5
1.783,4
1.998,8
2.143,2
2.394,6
2.555,9
2.978,0
222,7
322,5
326,3
320,5
338,6
401,2
526,6
616,5
649,6
698,5
822,9
-
45
1
-2
6
18
31
17
5
8
18
1.024,1
1.218,4
1.303,7
1.526,1
1.314,2
1.382,2
1.472,2
1.516,7
1.745,0
1.857,4
2.155,1
-
19
7
17
-14
5
7
4
14
6
16
Nguồn: Niên giám thống kê 1986.
BẢNG 2 - KIM NGẠCH XUẤT KHẨU NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI.
Đơn vị: Triệu USD.
Năm
Tổng kim
Ngạch XNK
Xuất khẩu Nhập khẩu
Tổng kim
ngạch
Tốc độ
tăng %
Tổng kim
ngạch
Tốc độ
tăng %
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999(DĐ)
2.856,4
3.373,0
3.908,3
4.289,0
4.280,4
4.980,0
4.909,0
8.100,0
12.800,0
18.399,8
20.050,0
20.855,0
23.500
723,9
833,5
1.524,6
1.815,0
2.081,7
2.475,0
3.000,0
3.600,0
5.300,0
7.253,8
8.850,0
9.361,0
11.200
-
15
82
19
14
19
21
20
47
37
22
0,9
0,97
2.132,5
2.539,5
2.383,7
2.474,0
2.187,7
2.505,0
3.924,0
4.500,0
7.500,0
11.146,0
11.200,0
11.494,0
12.300,0
-
19
-6
3
-11
14
56
14
67
49
0,5
0,6
0,67
Nguồn: Niên giám thống kê năm 1996.
II-/ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ CÁC HÌNH THỨC
XUẤT KHẨU CHỦ YẾU
Chúng ta đều biết xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất trong
nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, phát triển và nâng cao đời sống nhân dân
trong nước. Đây là hoạt động phức tạp hơn nhiều so với hoạt động bán sản phẩm ở
thị trường nội địa bởi nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu. Đó là từ nghiên cứu thị trường
nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, lựa chọn thương nhân giao dịch, tiến
hành giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng cho đến khi hàng hoá đến cảng, chuyển
giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành các thủ tục thanh toán. Mỗi khâu,
mỗi nghiệp vụ đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng đặt trong mối quan hệ lân nhau nắm
bắt được lợi thế cho hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất. Hoạt động kinh
doanh xuất khẩu có hiệu quả không thể thiếu các nghiệp vụ sau:
1-/ Nghiên cứu thị trường.
Đây là khâu rất quan trọng và phải cẩn thận, nó ảnh hưởng đến hiệu quả của
hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh
doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thong qua sự
biến đổi nhu cầu, cung cấp giá cả trên thị trường giúp cho họ giải quyết được các
vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường khả năng tiêu thụ, khả
năng cạnh tranh của hàng hoá Công việc này bao gồm nghiên cứu thị trường
hàng hoá thế giới, nắm bắt đúng dung lượng và lựa chọn các hình thức mua bán.
a) Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới
Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng
hoá ở đâu có sản xuất và lưu thông thì ở đó có thị trường
+ Thị trường là tổng thể khách quan lưu thông hàng hoá tiền tệ
+ Thị trường là tổng khối lượng cần có khả năng thanh toán và tổng khối
lượng cung có khả năng đáp ứng.
Như vậy nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới phải bao gồm nghiên cứu
toàn bộ quá trìn sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là không chỉ nghiên
cứi trong lĩnh vực lưu thông mà phải nghiên cứu cả lĩnh vực sản xuất và phân phối
hàng hoá. Những diễn biến trong quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất
hàng hoá cụ thể được biểu hiện tập chung trong lĩnh vực lưu thông trên thị trường
hàng hoá đó.
Trong nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới đặc biệt khi muốn kinh doanh
xuất khẩu hàng hoá thành công, điều không thể thiếu được là các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu phải biết là sản phẩm xuất khẩu phải phù hợp với thị
trường và năng lực của doanh nghiệp. Muốn vậy thì doanh nghiệp phải xác định
được vấn đề sau:
+ Thị trường đang cần mặt hàng gì?
+ Tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào?
+ Mặt hàng đang ở pha nào của chu kỳ sống?
b) Dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến nó.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi
thị trường nhất định (thế giới, khu vực, dân tộc ) trong một thời gian nhất định
thường là một năm. Dung lượng thị trường không cố định mà nó luôn thay đổi tuỳ
theo tình hình do tác động của nhiều nhân tố tổng hợp những giai đoạn nhất định. Có
rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường, có thể chia ra làm 2 nhóm:
+ Các nhân tố làm cho thị trường biến đổi có tính chất chu kỳ như sự vận
động của tình hình kinh tế của các nước trên thế giới, tính chất thời vụ trong quá
trình sản xuất sản phẩm, phân phối và lưu thông hàng hoá.
+ Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường. Nhóm này
có thể kể ra: hiện tượng đầu cơ trên thị trường, bão lụt, hạn hán Gây ra những
biến đổi về cung cầu.
Như vậy nghiên cứu thị trường hàng hoá khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm
của chúng để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đối với cung cầu mặt
hàng đó trên thị trường. Xác định nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới xu
hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt trong
kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng. Nắm vững dung
lượng thị trường giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc đề ra quyết định kịp thời
chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt được hiệu quả kinh
doanh cao nhất.
Cùng việc nghiên cứu dung lượng thị trường, người kinh doanh đòi hỏi phải
nắm được nhiều thông tin khác nhau như tình kinh doanh mặt hàng đó trên thị
trường, các đối thủ cạnh tranh của mình quan trọng hơn nữa là phải nắm và hiểu
được các điều kiện chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán của từng
khu vực để hoà nhập với thị trường, giảm tối đa những sơ xuất trong giao dịch
buôn bán.
c) Lựa chọn đối tác buôn bán.
Mục đích của hoạt động này là lựa chọn đối tác hay bạn hàng để cộng tác an
toàn và cùng có lợi. Nội dung cần thiết để lựa chọn nghiên cứu bao gồm:
+ Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó.
+ Lĩnh vức kinh doanh của họ.
+ Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ nhằm thấy được ưu thế khi thoả
thuận giá cả, điều kiện thanh toán.
+ Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
+ Những người chịu trách nhiệm thay mặt để kinh doanh, phạm vi trách
nhiệm của họ đối với nghĩa vụ của công ty.
Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu, tốt nhất nên chọn người nhập khẩu
trực tiếp để hạn chế những hoạt động chung gian bởi vì nó chỉ thích hợp khi ta
thâm nhập thị trường mới, mặt hàng mới cần nắm bắt các thông tin về thị trường.
Có thể nói việc lựa chọn đối tượng giao dịch có căn cứ khoa hoạc là điều kiện
quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong quan hệ quốc tế.
Song việc lựa chọn các đối tượng giao dịch cũng tuỳ thuộc vào kinh nghiệm và
truyền thống trong mua bán của mình.
2-/ Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
Giá cả là việc biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời nó biểu hiện
tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân như quan hệ cung cầu, hàng hoá tích luỹ tiêu dùng giá cả luôn luôn gắn liền
với trị trường và chịu tác động của nhiều nhân tố.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp hơn do buôn
bán diễn ra ở các khu vực khác nhau và trong thời gian dài hơn, hàng hoá vận
chuyển qua các nước có chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với sự biến động
giá cả trên thị trường, cá nhà kinh doanh tốt nhất là thực hiện việc đánh giá một
cách linh hoạt phù hợp mục đích cơ bản của doanh nghiệp. Thông thường các nhà
kinh doanh xuất nhập khẩu thường định giá bán hàng hoá dựa trên 3 căn cứ sau:
+ Căn cứ vào giá thành và chi phí khác (vận chuyển, bảo hiểm).
+ Căn cứ vào sức mua của người tiêu dùng và nhu cầu của họ (nhu cầu thị trường).
+ Căn cứ vào giá cả các hàng hóa cạnh tranh.
Nghiên cứu giá cả được coi như là một vấn đề chiến lược bởi nó ảnh hưởng
trực tiếp tới mức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng đảm bảo
cho các nhà sản xuất thắng lợi trong kinh doanh. Đây là phương pháp tốt nhất để
tránh rủi ro và thua lỗ.
3-/ Thanh toán trong thương mại Quốc tế.
Đây là một khâu rất quan trọng, đảm bảo hiệu quả kinh tế trong kinh doanh
suất nhập khẩu. Việc thanh toán phải xét đến các vấn đề sau:
-Tiền tệ trong thanh toán quốc tế.
-Thời hạn thanh toán.
-Các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế.
-Các điều kiện đảm bảo hối đoái.
4-/ Lập phương án kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường,
đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế
hoạch hoạt động của đơin vị nhằm đạt được những mục tiêu xác định trong kinh
doanh. Việc xây dựng phương án này bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường và doanh nghiệp để phác hoạ một bức tranh
tổng quát về hoạt động kinh doanh (thuận lợi và khó khăn)
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
- Đề ra mục tiêu cụ thể: sẽ bán được bao nhiêu? với giá bao nhiêu? sẽ thâm
nhập vào thị trường nào?
- Đề ra biện pháp và thực hiện những biện pháp này một cách có hiệu quả
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế cuả việc kinh doanh qua các chỉ tiêu chủ yếu:
+ Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ
+ Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn
+ Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi
+ Chỉ tiêu điểm hoà vốn
5-/ Thu mua cung ứng hàng xuất khẩu
Để tạo cho việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng một cách chắc chắn
thì phải nắm bắt được khả năng cung ứng hàng xuất khẩu của các đơn vị trong
nước. Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng:
+ Lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu: theo phương pháp này người ta
nghiên cứu tình hình khả năng sản xuất và tiêu thụ từng mặt hàng. Phương pháp
này cho ta biết được khả năng sản xuất và xuất khẩu từng mặt hàng.
+ Lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu. Theo phương pháp này ta theo
dõi được năng lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất. Năng
lực này thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
- Số lượng và chất lượng hàng cung ứng hàng năm
- Giá thành
- Tình hình trang thiết bị
- Trình độ công nhân
Phương pháp này chỉ giúp ta nắm được tình hình sản xuất của từng xí nghiệp
hoặc địa phương nhưng lại không nắm được tình hình sản xuất và tiêu thụ từng
mặt hàng. Chính vì vậy hầu hết các đơn vị kinh doanh xuất khẩu thường ứng dụng
cả 2 biện pháp.
6-/ Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu
a) Các hình thức đàm phán:
Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các
nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các
hình thức sau:
+ Đàm phán qua thư tín
+ Đàm phán qua điện thoại
+ Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp
b) Các bước tiến hành đàm phán
Bước 1: Chào hàng (phát giá)
Đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình, là lời đề
nghị ký kết hợp đồng. Nếu việc mua bán xuất phát từ phía người mua (người nhập
khẩu) thì có thể hỏi giá hoặc đặt hàng
Bước 2: Hoàn giá
Khi người mua chấp nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp nhận hoàn
toàn đơn chào hàng đó mà đưa ra một đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn
giá. Thường thì giao dịch không kết thúc ngay từ lần chào hàng đầu tiên mà phải
trải qua nhiều lần hoàn giá.
Bước 3: Chấp nhận
Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng (đặt hàng) mà phía
bên kia đưa ra, khi đó thì tiến hành làm hợp đồng.
Bước 4: Xác nhận
Hai bên sau khi thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có
khi cẩn thận ghi lại mọi điều thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện xác nhận
có chữ ký của hai bên.
c) Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hoá.
Đối với quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành
giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và kí kết hợp đồng, trong
đó quyền hạn và nghĩa vụ của các bên phải được thực hiện rõ trong hợp đồng. Hợp
đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc của nước ta. Hợp đồng kinh tế
ngoại thưong là sự thoả thuận của các đương sự có quốc tịch khác nhau, trong đó
một bên gọi là bên bán(xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của
bên kia gọi là bên mua(nhập khẩu) một lượng hàng hoá nhất định. Bên nhập khẩu
có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng
d) Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Trình tự thực hiện hợp đồng được tóm tắt ở bảng sau:
e) Đánh giá hiệu quả thực hiện hợp đồng.
Ý nghĩa của công việc này là nhằm tạo điều kiện cho các thành viên ở trong
doanh nghiệp thấy được kết quả và hạn chế trong quá trình thực hiện hợp đồng. Từ
đó rút ra những kinh nghiệm hoạt động, đồng thời có những biện pháp khuyến
khích tinh thần làm việc thông qua những hình thức xử phạt vật chất cụ thể.
III-/ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế
nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được
những gì họ sẽ phải đối mặt và đứng trước tình thế đó thì họ phải xử lí như thế nào. ở
đây ta có thể nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhóm yếu tố chủ yếu sau:
1-/ Các yếu tố kinh tế.
1.1 Tỉ giá hối đoái và tỉ xuất ngoại tệ của hàng xuất khẩu.
Tỉ giá hối đoái là phương tiện so sánh giá trị hàng hoá trong nước và trên thị
trường quốc tế, là một trong những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp đưa ra
quyết định liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế.
Trong trường hợp tỉ giá hối đoái của đồng Việt Nam giảm so với ngoại tệ
mạnh thì các doanh nghiệp có thể thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu
ợđồấẩ ể ấ
ẩ ị !"à
#! $%à
à
à ủụ&
ả
'
ểệ !"à (ỷ"&$%ầ
) ả!ể à ủụ&!"
#ả'ếếạ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét