+ Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu sự kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại trong những năm từ 1965 đến 1973 diễn ra ở nớc ta.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
+ Cơ sở lý luận: Luận văn đợc xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ Phơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phơng pháp lịch sử, phơng
pháp lôgíc và sự kết hợp giữa hai phơng pháp đó. Đồng thời còn vận dụng các
phơng pháp khác nh: phân tích, so sánh để trình bày các nội dung nghiên cứu.
6. ý nghĩa của luận văn
Thông qua nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về kết hợp SMDT với SMTĐ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nớc từ 1965 đến 1973, luận văn góp
phần tổng kết một giai đoạn lịch sử rất quan trọng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nớc của dân tộc ta.
Qua nghiên cứu rút ra những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh
đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nớc từ 1965 đến 1973, có thể vận dụng trong công cuộc bảo vệ
Tổ quốc hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử
Đảng trong các Học viện, Nhà trờng quân đội hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: mở đầu, 2 chơng, (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
Chơng 1
Chủ trơng và sự chỉ đạo của Đảng kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc kháng chiến
7
chống Mỹ, cứu nớc từ 1965 đến 1973
1.1. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là yêu
cầu khách quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nớc
1.1.1. Lý luận Mác- Lê nin, t tởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại
Chủ nghĩa Mác ra đời là một thành tựu vĩ đại của nhân loại, là vũ khí lý
luận khoa học và cách mạng soi đờng để giai cấp vô sản và các dân tộc trên thế
giới vơn lên tự giải phóng mình.
Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài,
giai cấp vô sản mỗi nớc trớc hết phải giành lấy chính quyền và tự mình trở
thành dân tộc. Nhng sức mạnh đấu tranh của các lực lợng cách mạng ấy lại
không bao giờ đợc tự giới hạn mình trong phạm vi dân tộc, mà cần phải đợc đặt
trong mối liên hệ quốc tế, theo tinh thần vô sản tất cả các nớc, đoàn kết lại.
Mặt khác, giai cấp vô sản mang bản chất quốc tế, đó là cơ sở khách quan của sự
liên minh đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở tất
cả các quốc gia dân tộc, theo quan điểm kết hợp SMDT với SMTĐ tạo thành
sức mạnh vô địch chiến thắng chủ nghĩa t bản.
Kế tục sự nghiệp của Mác- Ăng ghen, V.I.Lê nin là Ngời hoạt động
trong thời kỳ chủ nghĩa t bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, khi hệ
thống thuộc địa của chúng đã bao trùm cả thế giới và khi phong trào giải
phóng dân tộc đã bắt đầu đợc khơi dậy. Trong điều kiện ấy, Lê nin đã phát
triển khẩu hiệu chiến lợc của Mác- Ăng ghen thành: vô sản tất cả các nớc và
các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.
Lê nin đã chỉ ra: trong thời đại ngày nay, sự nghiệp đấu tranh đánh đổ
chủ nghĩa đế quốc chỉ có thể giành đợc thắng lợi bằng sự kết hợp chặt chẽ cách
mạng vô sản ở các nớc t bản chủ nghĩa với cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nớc thuộc địa và phụ thuộc. Đồng thời cách mạng vô sản ở các nớc t bản chủ
8
nghĩa cũng chỉ có thể nổ ra và giành thắng lợi khi có sự hỗ trợ, phối hợp của
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nớc thuộc địa và phụ thuộc. Vì vậy, cách
mạng vô sản ở chính quốc phải tích cực giúp đỡ các phong trào giải phóng dân
tộc bằng mọi hình thức có thể thì mới có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê nin,
hiểu sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy sức
mạnh to lớn của dân tộc. Đó là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những
tinh hoa văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; những thành tựu
cách mạng trong những năm dới sự lãnh đạo của Đảng; là tiềm năng của dân
tộc, đất nớc ta đợc nhân dân ta và Đảng phát huy lên trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội trong quá trình cách mạng. Sức mạnh đó chính là sức mạnh của tinh
thần yêu nớc, của ý chí tự lực tự cờng, kiên cờng bất khuất và sức mạnh đoàn
kết của dân tộc ta, sức mạnh của con ngời, của đất nớc Việt Nam, của chế độ xã
hội chủ nghĩa. Ngời ý thức rất rõ sức mạnh đó sẽ trở thành vô địch khi cách
mạng nớc ta đặt dới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đồng thời, Ngời cũng
khẳng định, sức mạnh đó đợc nhân lên nhiều lần khi đợc kết hợp với sức mạnh
thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù. Sức mạnh thời
đại, theo Hồ Chí Minh trớc hết là sức mạnh của tính quy luật phát triển của lịch
sử xã hội loài ngời; sức mạnh của các lực lợng cách mạng thế giới; sức mạnh
của nền văn minh nhân loại; sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại. Đó chính là sức mạnh của tính chất thời đại quá độ lên CNXH, sức
mạnh của ba dòng thác cách mạng, là sức mạnh của nhân dân lao động, các
dân tộc thuộc địa bị áp bức gắn với sức mạnh của giai cấp vô sản và cách mạng
vô sản, đợc soi sáng bởi chủ nghĩa Mác- Lê nin, dới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức đợc tính tất yếu phải kết hợp đúng
đắn hai yếu tố ấy để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, kết hợp SMDT với SMTĐ trớc hết phải đặt cách
mạng Việt Nam trong tiến trình chung của cách mạng thế giới. Bởi vậy, khi lựa
9
chọn con đờng cứu nớc của nhân dân Việt Nam theo gơng cuộc cách mạng
Tháng Mời Nga (1917), Hồ Chí Minh đã nhận thấy nhiệm vụ chủ yếu của loài
ngời trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là phải biết đoàn kết xung quanh giai cấp
công nhân, tiến hành cách mạng vô sản để lật đổ CNTB, xây dựng CNXH. Do
đó, vấn đề dân tộc phải gắn với vấn đề giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc
phải gắn liền với cách mạng vô sản. Vấn đề giải phóng thuộc địa trở thành một
vấn đề quốc tế, không chỉ đối với nhân dân các nớc thuộc địa, phụ thuộc mà cả
với nhân dân chính quốc. Tuy nhiên, khi gắn cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc với cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh đến những mặt riêng về
lịch sử- xã hội, kinh tế của mỗi cuộc cách mạng, những đặc điểm riêng giữa ph-
ơng Đông và phơng Tây để vạch ra chiến lợc đấu tranh cho phù hợp. Trong đó,
Ngời chú ý khai thác những điểm riêng của mỗi dân tộc mà không trái với đờng
lối chung của cách mạng thế giới. Cuộc đấu tranh của quần chúng lao động trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa dù diễn ra dới các hình thức khác nhau nhng đều phải
nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản, đều nhằm vào mục tiêu giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng đợc
dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới [31, tr.416].
Cách mạng vô sản phải biết kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp
với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thì mới có thể thắng lợi. Tuy nhiên, khi
chỉ đạo thực hiện ở mỗi nớc lại phải rất linh hoạt. Theo Hồ Chí Minh cách mạng
muốn thành công trớc hết phải dựa vào những điều kiện cụ thể của dân tộc mình
để làm cơ sở kết hợp phát huy sức mạnh của thời đại, đồng thời không đợc xa
rời nguyên tắc đấu tranh của cách mạng vô sản.
Đó thực chất là việc xử lý khéo léo, có hiệu quả mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và giai cấp; vấn đề dân tộc và quốc tế trong từng tình hình cụ
thể của thế giới và trong nớc. Xét về bản chất theo Hồ Chí Minh, cuộc cách
mạng ở các nớc thuộc địa dân tộc cách mệnh, cũng thể hiện tính chất giai cấp
10
rõ rệt. Đó là cuộc đấu tranh của đông đảo nhân dân lao động mà công nông là
gốc cách mệnh, nhằm chống lại cờng quyền, tức là chống lại ách áp bức của
t bản đế quốc và bọn tay sai nhằm thiết lập chuyên chính vô sản. Mặt khác, Hồ
Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng: trong thời đại mới, mở đầu bằng cuộc
cách mạng Tháng Mời Nga (1917), cuộc dân tộc cách mệnh và thế giới cách
mệnh do vô sản giai cấp đứng đầu đi trớc [32, tr.265, 266], có quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Khẳng định sự kết hợp biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế,
Hồ Chí Minh đã làm tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,
Ngời đã viết: Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế
giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả [32,
tr.301]. Chính nhờ nắm bắt đợc đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mà
Hồ Chí Minh đã xác định đờng lối chiến lợc, sách lợc, phơng pháp cách mạng
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam theo con đờng cách mạng vô sản. Đờng lối
đó, sau này đợc Ngời tổng kết:
Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điều đó
chứng minh rằng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nớc thuộc
địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của nó, dựa vào
quần chúng nhân dân rộng rãi trớc hết là nông dân và đoàn kết đợc
mọi tầng lớp nhân dân yêu nớc trong một Mặt trận thống nhất, với sự
đồng tình ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trớc hết là phe
xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nớc đó nhất định thắng lợi.
[34, tr.315, 316].
Kế thừa và phát triển t tởng của chủ nghĩa Mác- Lê nin về đoàn kết của
giai cấp vô sản với nhân dân lao động tất cả các nớc trên thế giới, theo Hồ Chí
Minh phải xây dựng tinh thần hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc và
các lực lợng cách mạng, hòa bình, dân chủ trên thế giới. Vì vô sản ở chính quốc
hay lao động bị áp bức ở thuộc địa, những ngời cùng khổ, tất cả đều có mối t-
11
ơng đồng là đấu tranh cho hòa bình, tiến bộ xã hội, con ngời đợc giải phóng
mọi áp bức và bất công. Do đó:
Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phơng vô sản đều là anh em .
Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh đề ra chủ trơng xây dựng tình đoàn kết hữu
nghị giữa các dân tộc. Nguyên tắc đoàn kết của Hồ Chí Minh là có lý, có
tình. Có lý là tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin,
những nguyên tắc chung trong quan hệ quốc tế: tôn trọng độc lập chủ quyền,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, hai bên cùng có lợi.
Có tình là trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc chung phải chú ý đến đặc điểm riêng
của mỗi dân tộc, phải thông cảm tôn trọng nhau của những ngời cùng chung lý
tởng, khắc phục t tởng sô vanh nớc lớn, tránh dùng sức ép chính trị, kinh tế,
ngoại giao hoặc vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về mối quan hệ biện
chứng giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, Hồ Chí Minh khẳng định kết
hợp SMDT với SMTĐ nhng phải dựa vào sức mình là chính. Ngời nói: Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không
xứng đáng đợc độc lập [33, tr.522]. Theo Ngời, muốn ngời ta giúp cho thì tr-
ớc hết mình phải tự giúp lấy mình đã [32, tr.293] và phải coi cuộc đấu tranh
của bạn cũng nh cuộc đấu tranh của ta , giúp bạn là tự giúp mình [31,tr.18].
Nh vậy, kết hợp SMDT với SMTĐ theo t tởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin trong hoàn cảnh mới của
cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội. Nó có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn, là những nguyên tắc quan trọng cho Đảng, Nhà nớc ta xác định
đờng lối, chính sách đối nội, đối ngoại đúng đắn, đồng thời là phơng hớng lớn
của cách mạng Việt Nam đợc thể hiện sâu sắc trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nớc.
1.1.2. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ đòi hỏi phải kết hợp sức
12
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Sau Hội nghị Giơnevơ (1954), đất nớc ta tạm thời chia làm hai miền, với
hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, chuyển sang
thực hiện cách mạng XHCN. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng DTDCND.
Tuy nhiệm vụ cách mạng ở hai miền thuộc hai chiến lợc khác nhau, nhng cùng
một mục tiêu là thực hiện thống nhất nớc nhà, đa cả nớc đi lên CNXH, cho nên
hai nhiệm vụ có mối quan hệ khăng khít với nhau, ảnh hởng và thúc đẩy nhau
cùng phát triển. Miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH giữ vai trò quyết định nhất
của sự nghiệp cách mạng ở nớc ta và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nớc nhà.
Miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Thông qua thực hiện nhiệm vụ mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ
chung của cả nớc là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nớc, đa cả nớc tiến lên
CNXH.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nớc chúng ta có thuận lợi cơ bản
chính là vai trò to lớn của miền Bắc XHCN với cách mạng cả nớc nh Đảng ta
khẳng định: Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ,
cứu nớc nếu không có miền Bắc XHCN [20, tr.28, 29].
Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng, đã nhanh chóng bắt tay vào hoàn
thành nhiệm vụ cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thơng chiến
tranh, đẩy mạnh cải tạo và xây dựng CNXH, bớc đầu đã đạt đợc những thành
tựu to lớn. Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng kinh tế xã hội, vừa bảo đảm
đời sống cho nhân dân miền Bắc, vừa tăng cờng chi viện sức ngời, sức của cho
cách mạng miền Nam. Nhân dân miền Bắc phối hợp với nhân dân miền Nam
đấu tranh chống những thủ đoạn xâm lợc và chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ ở cả hai miền Nam - Bắc.
Đồng thời, Đảng ta đã có kinh nghiệm lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và
chiến tranh cách mạng, có Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, có nhân dân từ Nam
chí Bắc đều đã đợc rèn luyện trong đấu tranh cách mạng và khói lửa chiến
13
tranh. Sau khi nhân dân ta đánh thắng chiến tranh xâm lợc của thực dân Pháp,
kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ oanh liệt, nhân dân ta càng đợc sự
đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của nhiều dân tộc trên thế giới. Song bên cạnh đó,
chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn mới trong việc ổn định và củng cố miền Bắc
khi vừa thoát ra khỏi chiến tranh và những khó khăn trong sự nghiệp xây dựng
CNXH còn mới mẻ với Đảng và nhân dân ta.
ở miền Nam, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc, ta
gặp nhiều trở ngại trong quá trình chuyển thế đấu tranh của cách mạng miền
Nam, trong hoàn cảnh so sánh lực lợng không có lợi cho ta. Bởi theo Hiệp định
Giơ-ne-vơ, ta nghiêm chỉnh thực hiện chuyển quân tập kết ra miền Bắc, do vậy
ở miền Nam lúc này chúng ta không còn lực lợng vũ trang tập trung, không có
chính quyền. Trong khi đó, phía địch có đầy đủ sức mạnh về kinh tế và quân sự,
nắm trong tay cả bộ máy ngụy quân, ngụy quyền đồ sộ, chúng ra sức thi hành
chính sách tiêu diệt phong trào cách mạng, gây cho ta nhiều tổn thất nặng nề
Cách mạng miền Nam bị địch đàn áp và khủng bố tàn khốc [1, tr.29].
Vào cuối năm 1964 đầu năm 1965, tình hình quốc tế lúc này không có
nhiều thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Cụ thể là trớc hành động mở rộng
chiến tranh và trực tiếp đa quân Mỹ vào xâm lợc Việt Nam, thái độ của Liên Xô
là vừa lên án Mỹ và tiếp tục viện trợ cho Việt Nam, nhng lo ngại Việt Nam
đánh lớn sẽ lôi kéo Liên Xô vào cuộc chiến tranh sẽ ảnh hởng đến hòa hoãn Xô
- Mỹ. Vì Vậy, Liên Xô tuy có viện trợ quân sự cho ta, nhng hạn chế trang bị vũ
khí tấn công chiến lợc kể cả về số lợng, chất lợng.
Thái độ của Trung Quốc trớc những cuộc tấn công ồ ạt của Mỹ vào Việt
Nam cũng rất phức tạp. Một mặt Trung Quốc tuyên bố là hậu phơng vững
chắc của Việt Nam, nhng lại nhắc Việt Nam phải tự lực cánh sinh; Trung
Quốc nói sẽ ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ đến cùng, song không muốn Việt
Nam đánh lớn, khuyên miền Bắc chỉ ủng hộ chứ không nên giúp miền Nam
Mặt khác, những ngời lãnh đạo Bắc Kinh muốn Việt Nam đứng về phía Trung
14
Quốc chống lại Liên Xô. Nhiều lần Trung Quốc yêu cầu Đảng ta phải tỏ rõ lập
trờng chống xét lại và cho rằng chống Mỹ thì phải đi cùng với chống xét
lại, vì xét lại cản trở quan hệ Trung Việt. Tuy nhiên, đòi hỏi ấy không đ-
ợc Việt Nam đáp ứng.
Về quan hệ của Trung Quốc với hai nớc Lào và Cămpuchia, thời gian này
cũng có những vấn đề gây khó khăn cho Mặt trận đoàn kết ba nớc Đông Dơng.
Đối với Cămpuchia, sau những chuyến đi thăm Trung Quốc của lãnh tụ
Khơmeđỏ (Pôn pốt) năm 1965 và 1967 đã gây cho lực lợng cách mạng của
Cămpuchia bị chia rẽ và gây khó khăn cho Việt Nam trong việc tranh thủ
Xihanúc cho phép lập các căn cứ hậu cần ở vùng biên giới. Tuy vậy, bằng chính
sách ngoại giao độc lập, Việt Nam vẫn giữ quan hệ tốt với Xihanúc (ngày13-6-
1967 hai bên chính thức lập quan hệ ngoại giao). Còn ở Lào, mặc dù có nhiều
thế lực quốc tế cố tình chia rẽ, nhng bộ đội tình nguyện Việt Nam và lực lợng
Pathét Lào vẫn luôn đoàn kết, sát cánh chiến đấu bảo vệ hành lang phía Tây của
miền Bắc và giữ vững giao thông trên con đờng vận tải chiến lợc Tây Trờng
Sơn.
Ngoài những tác động bởi các mối quan hệ của các nớc lớn, có ảnh hởng
trực tiếp đến cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân ta đã đề cập trên đây. Nh-
ng bên cạnh đó còn có nhiều quốc gia, nhiều tổ chức chính trị trên thế giới bày
tỏ mối quan ngại sâu sắc và sự đồng tình ủng hộ nhân dân ta trớc hành động
xâm lợc của Mỹ. Đáng chú ý là trong đó có cả những đồng minh truyền thống
của Hoa Kỳ cũng lên tiếng ủng hộ chúng ta Đó là một trong những nhân tố
thuận lợi để Đảng ta mở Mặt trận thứ ba, là điều kiện thuận lợi để Đảng ta kết
hợp SMDT với SMTĐ.
Khó khăn hơn cả là hành động mở rộng chiến tranh xâm lợc của đế quốc
Mỹ, tên sen đầm quốc tế, có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh; trong khi đó ta là
một đất nớc nhỏ, kinh tế chậm phát triển. Nếu so sánh về dân số của cả nớc ta
chỉ bằng 1/6, về giá trị tổng sản phẩm hàng năm (của miền Bắc) chỉ bằng
15
1/1000 của nớc Mỹ. Lực lợng so sánh về quân sự giữa ta và Mỹ, nhất là những
năm đầu còn chênh lệch lớn. Ta ít hơn địch về số lợng quân đội tập trung và yếu
hơn về vật chất kỹ thuật, vũ khí, khí tài và phơng tiện chiến tranh. Mỹ huy động
vào cuộc chiến tranh nhiều hơn ta về số lợng trang thiết bị quân sự và hiện đại
hơn về chất lợng. Đặc biệt khi triển khai chiến lợc chiến tranh cục bộ, Mỹ đã
ồ ạt đa quân chiến đấu Mỹ và quân các nớc phụ thuộc vào miền Nam Việt Nam,
đồng thời củng cố và tăng cờng quân ngụy, sử dụng hai lực lợng chiến lợc này
với số quân đông nhất: trong giai đoạn này, với cố gắng quân sự lớn, giới cầm
quyền Mỹ đã huy động lực lợng và tiền của đến mức cao nhất theo khả năng
của chúng có thể huy động đợc vào cuộc chiến tranh xâm lợc Việt Nam [1,
tr.59, 60]. Mỹ huy động tới 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải
quân và 60% không quân của nớc Mỹ; 6,5 triệu lợt thanh niên Mỹ trực tiếp
tham gia chiến tranh xâm lợc Việt Nam, cùng với 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ
trực tiếp phục vụ chiến tranh xâm lợc Việt Nam. Mỹ đã đa những nhà chính trị
đợc coi là lỗi lạc, những tớng lĩnh đợc xếp vào loại tài ba, những nhà ngoại
giao dày dạn kinh nghiệm để điều hành cuộc chiến tranh xâm lợc Việt Nam.
Có thể nói rằng cùng với việc động viên tới mức cao nhất các lực lợng vật
chất, phơng tiện và vũ khí hiện đại (trừ vũ khí nguyên tử), Mỹ đã huy động và sử
dụng tối đa u thế về khoa học kỹ thuật vào cuộc chiến tranh xâm lợc Việt Nam.
Trong tình hình lực lợng so sánh nh vậy, rõ ràng ta phải đánh lâu dài, thực hiện
lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lợng cao thắng số lợng đông. Căn cứ
vào tình hình so sánh lực lợng nêu trên, thực tế đòi hỏi ta phải biết kết hợp SMDT
với SMTĐ, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của sự kết hợp các yếu tố về kinh tế,
quân sự, chính trị, ngoại giao để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lợc. Nếu nh
không có sự kết hợp giữa SMDT với SMTĐ, sức mạnh của nội lực với sức mạnh
ngoại lực thì chúng ta khó có thể thắng giặc Mỹ xâm lợc. Ngay nh B.Đavitson là
một sĩ quan tình báo cao cấp trong quân đội Mỹ đã thừa nhận: Đây là một cuộc
chiến tranh tổng lực. Cuộc chiến tranh này động viên toàn thể mọi ngời, do các
16
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét