Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

sử dụng các công cụ tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát.DOC

bao nhiêu thì phù hợp. Nếu tỷ lệ tăng trưởng cao, tỷ lệ lạm phát quá thấp thì dẫn tới
tình trạng các ngân hàng ứ đọng vốn, làm ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Vì
thế trong trường hợp đó người ta phải cố gắng tăng tỷ lệ lạm phát lên. Khi chính phủ
kiểm soát lạm phát ở mức độ mà nền kinh tế chịu được (tỷ lệ lạm phát dưới 10%) thì
vừa không gây đảo lộn lớn, các hệ quả của lạm phát được kiểm soát, vừa sức che
chắn hoặc chịu đựng được của nền kinh tế và của các tầng lớp xã hội. Hơn nữa, một
sự hy sinh nào đó do mức lạm phát được kiểm soát đó mang lại được đánh đổi bằng
sự tăng trưởng , phát triển kinh tế mở ra nhiều việc làm hơn, thu nhập danh nghĩa có
thể được tăng lên cho mỗi người lao động nhờ có đủ việc làm hơn trong tuần, trong
tháng hoặc tăng thêm người có việc làm, có thu nhập trong gia đình và cả tầng lớp lao
động do giảm thất nghiệp . Đến lượt nó, thu nhập bằng tiền tăng lên thì tăng thêm sức
kích thích của nhu cầu của tiền tệ và sức mua đối với đầu tư, tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP). Nhưng khi tỷ lệ lạm phát đến 2 con số trở lên (lạm phát phi
mã hoặc siêu lạm phát) thì hầu như tác động rất xấu tới nền kinh tế như sự phân phối
và phân phối lại một cách bất hợp lý giữa các nhóm dân cư hoặc các tầng lớp trong xã
hội và các chủ thể trong các quan hệ về mặt tiền tệ trên các chỉ tiêu mang tính chất
danh nghĩa (chỉ tiêu không tính đến yếu tố lạm phát, không tính đến sự trượt giá của
đồng tiền). Mặt khác tỷ lệ lạm phát cao phá hoại và đình đốn nền sản xuất xã hội do
lúc đó độ rủi ro cao, không ai dám tính toán đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế
ngắn hạn từng thương vụ, từng đợt, từng chuyến diễn ra phổ biến, Trong xã hội xuất
hiện tình trạng đầu cơ tích trữ, dẫn tới khan hiếm hàng hoá . Điều đó lại làm giá càng
tăng, và xã hội rơi vào vòng luẩn quẩn, lạm phát càng tăng dẫn tới mất ổn định về
chính trị xã hội. Tỷ lệ lạm phát cao còn có ảnh hưởng xấu tới quan hệ kinh tế quốc tế.
Tóm lại khi lạm phát cao tới mức hai con số (ở Việt nam giữa những năm 80 đã xảy ra
tình trạng lạm phát tới mức 3 con số) trở lên, thì có ảnh hưởng xấu tới xã hội. Do đó
chính phủ phải có giải pháp khắc phục, kiềm chế, và kiểm soát lạm phát. Có rất nhiều
giải pháp để kiểm soát lạm phát nhưng ở đề tài này tôi chỉ nêu ra giải pháp sử dụng
chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát.
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
5
4. Khái niệm về chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà
nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Chính sách tiền tệ có thể được hiểu
theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính
sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến
4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định
tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông
thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kỳ
tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm
phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá . Chúng ta
có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào thành phần.
Kết cấu các mức chi phí thuế khoá của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập
trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền KTQD, bao gồm việc đáp ứng
khối lượng tần cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín
dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế , tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường
tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng
thương mại, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy
kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ,
giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá . Chính vì vậy chính sách
tiến tệ tác động nhạy bén tới lạm phát và đây là giải pháp khá hữu hiệu trong việc
kiểm soát lạm phát.
5. Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát.
Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm hiểu từng công
cụ một của chính sách tiền tệ.
5.1. Dự trũ bắt buộc.
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến
những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả
năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này,
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
6
ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy
động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng
lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng
tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần khống chế (bị "vô hiệu
hoá" về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và
khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Khi lạm phát cao, ngân hàng trung
ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các
ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế
giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm
cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ
dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng
thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng
tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì
việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ DTBB
mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn
sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa
ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm
trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá
nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền
tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ
dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây
nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá
thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn
định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát
cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những
nước phát triển , có nền kinh tế ổn định)
5.2. Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực
hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, ngân hàng trung
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
7
ương đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện việc tạo
tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương,
tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều
khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai
đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần
thực hiện chính sách "nới lỏng" hay "thắt chặt" tín dụng mà ngân hàng trung ương quy
định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng
hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó. Khi ngân hàng
trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại cũng phải
nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên,
giảm "cầu" về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân
dân giảm đi). Do đó đầu tư giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ
lạm phát giảm). Trường hợp ngược lại tức là ngân hàng trung ương kích thích tăng
cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nước công cụ nghiệp
vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu, hoặc các loại tín phiếu là
những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn nhưng ở nước
ta chưa có công cụ truyền thống để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt
khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết khả năng thanh toán vừa có
khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế. Cho nên có thể ví công cụ tái
chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy. Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền
cho nền kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi
nền kinh tế có hiện tượng lạm phát. Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu
tại một mức nào đó sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị
trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó lãi suất cho vay thay đổi. Những biến động này
dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó
thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất vả hơn.
Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát lạm phát.
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
8
5.3. Hoạt động thị trường mở.
Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là
NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu đến để xin "tái
cấp vốn" thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương
để điều khiển khối lượng tiền, qua đó đã kiểm soát được lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu
thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân
hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ
của các NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của
các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta.
Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ
lạm phát , việc
thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.Trong nghiệp vụ thị trường mở,
ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng thông qua
"giá cả" mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào khối lượng tiền bằng
công cụ thị
trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô hình, "không can thiệp thô
bạo", điều khiển mạnh mà không chứa đựng "một chút mệnh lệnh". Một mặt nghiệp
vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm trong lúc tiến hành
nghiệp vụ thị trường mở, như khi thấy cung tiền tệ tăng hoặc giảm quá nhanh ngân
hàng thương mại có thể lập tức đảo ngược lại bằng cách bán trái phiếu hoặc mua trái
phiếu và ngược lại. Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi
là vũ khí sắc bén nhất đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói
riêng.Nhưng ở nước ta đang ở trong thời kỳ đặt nền móng. Bởi vì nghiệp vụ này đòi
hỏi phải có môi trường pháp lý nhất định. Trong thời kỳ lạm phát đến 3 con số, Việt
nam đã áp dụng chính sách lãi suất để đẩy lùi lạm phát rất nhanh chóng. (nhờ vào đặc
điểm riêng biệt của lạm phát ở Việt nam). Chúng ta sẽ nghiên cứu xem chính sách lãi
suất tác động tới lạm phát như thế nào.
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
9
5.4. Lãi suất.
Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán
trong một lãnh thổ và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tuỳ
theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Như vậy
chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tácđộng làm thay đổi cầu tiền tệ trong dân cư, và làm
thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi có lạm phát. Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất
tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư vào ngân hàng (gửi tiền vào
ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như vậy cầu tiền giảm do
đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng chúng ta biết
rằng in= ii + ir trong đó in là tỷ lệ lãi suất danh nghĩa, il: tỷ lệ lãi suất thực tế và ii là tỷ
lệ lạm phát, do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính là việc
tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực
dương) qua đó mới tạođược cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm
lại khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào NHTM và
ngược lại. NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm
được khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng người vay
vì kinh doanh bằng vốn vay NHTM không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi
suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của NHTM để đạt được mục đích của
chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ lạm phát). Tuỳ từng thời điểm mà chính sách lãi suất
được áp dụng thành công trong việc chống lạm phát. Ở Việt nam đã áp dụng rất thành
công chính sách lãi suất vào những năm cuối thập kỷ 80 trong việc giảm tỷ lệ lạm phát
từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở nước ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã
mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ có tác động trong nước đầu tư bằng Việt nam
đồng chứ quốc tế ít đầu tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính sách
lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối
quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài . Trong việc kiểm soát lạm
phát đây là công cụ cổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công
cụ rất quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và huy động vốn cũng như cung cấp
vốn.
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
10
5.5. Hạn mức tín dụng:
Ngoài những công cụ cơ bản trên, ngân hàng nhà nước còn sử dụng công cụ hạn mức
tín dụng để điều hành, làm cho khối lượng tín dụng đối với NHTM không vượt quá
mức cho phép để từ đó bảo đảm mức lạm phát đã được phê duyệt. Hạn mức tín dụng
là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong
thời kỳ nhất định phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ. Đây là một chỉ
tiêu có quan hệ trực tiếp
đến khối lượng tiền trung ương được cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối với các
NHTM. Khi hạn mức tín dụng giảm, dẫn tới cung tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm
làm cho tổng cầu giảm và cuối cùng là giá giảm. Với mục tiêu ổn định đồng tiền và
chống lạm phát được coi là mục tiêu số 1, thì công cụ hạn mức tín dụng là cần thiết.
Song việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng cũng là vấn đề khó khăn không nhỏ cho
các ngân hàng thương mại. Tiền gửi của nhân dân không thể không thu nhận hàng
ngày hàng giờ. Nếu nhận tiền
gửi mà không được cho vay thì chẳng khác nào có đầu vào mà không có đầu ra. Như
vậy đầu ra của vốn huy động bị bế tắc bởi hạn mức tín dụng. Việc xác định hạn mức
tín dụng là rất cần thiết, để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng có
những mặt trái gây khó khăn cho NHTM. Cần có những giải pháp để khắc phục
những khó khăn đó
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
11
PHẦN II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT NHỮNG NĂM QUA Ở
VIỆT NAM.
1. Giai đoạn 1986 - 1992
a. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Năm 1985, Gorbacher đó nên nắm chính quyền tại Liên xô, cùng với sự sụp đổ của
các nước Đông Âu cũ,Việt Nam bị cắt giảm nguồn viện trợ từ nước ngoài và đến năm
1991 thỡ bị cắt hẳn. Do đó,nguyên vật liệu đầu vào như sắt thép, dầu hỏa, máy móc
thiết bị….Việt Nam hoàn toàn phải mua với giá cao làm cho chi phí sản xuất tăng
nhanh. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra.
Khi lạm phát chi phí đẩy xảy ra, càng đẩy các doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn và
để hỗ trợ nền sản xuất trong nước, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, Chớnh phủ
Việt Nam lại in thờm tiền làm tăng mức cung ứng tiền trong nền kinh tế lại dẫn đến
lạm phát tiền tệ, điều đó càng đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao.
Đồng thời năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá, tiền lương, tiền mà đỉnh
cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9 và lạm phát cũng bùng nổ ngay sau đó. Năm 1986
chúng ta đó rơi vào tỡnh trạng siờu lạm phátt với ba chữ số 775% vào năm 1986 trong
khi đó tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,33%.
Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu năm
1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy lại tiếp
diễn. .Đứng trước tỡnh hỡnh đó, dân chúng tích trữ hàng lúa , lương thực, vàng và đô
la càng nhiều và lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả
tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng
GDP chỉ là 3,78%.
Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn cũn khỏ cao với mức
tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tỡnh hỡnh
mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995.
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
12
Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy, sau đó là do
tăng mức cung ứng tiền , năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp tục sau đó lạm
phát cầu kéo xảy ra.
Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992
Tăng trưởng(%) 2,33 3,78 5,1 8 0,1 6 8,6
Lạm phỏt(%) 748 223,1 394 34,7 67,4 67,6 17,6
Bảng tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1986-1992
b. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Theo bảng trên chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đó có những
bước khả quan hơn, lạm phát đó giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai chữ số,
đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát giảm xuống
một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đó có những biện pháp tương đối có
hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Chính sách về lãi suất:thực hiện chính sáh lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất
danh nghĩa-tỉ lệ lạm phát ), tức là nâng lãi suất tiết kiệm lớn hơn tỉ lệ lạm phát nhằm
thu hồi lượng tiền trong lưu thông về.
Lúc này cách giải quyết thất nghiệp ở nước ta là NHNN từng bước giảm dần la cho
vay thông qua việc giảm dần la huy động từ 12% xuống 9% rồi 6%/năm; 1,4% xuống
0,9% rồi 0,85%/ tháng.
Chính sách về tỉ giá hối đoái:
NHNN có bước tiến quan trọng trong điều chỉnh tỉ giá hối đoái cho phù hợp với nhu
cầu của thị trường. Tỉ giá hối đoái trước đây chỉ sử dụng cho mực đích kế toán chứ
không phản ánh đúng các khoản chi phí thực tế. Việc áp dụng tỉ giá hối đoái thực tế
đó làm cho người dân không còn tích trữ hàng húa , vàng, đô la mà bắt đầu tích lũy
bằng đồng nội tệ.
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
13
Từ năm 1990, NHNN đó cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách
tiền tệ . Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với múc tiêu
tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát .
2. Giai đoạn 1994-1998
Vào năm 1993 , mặc dù lạm phát đã giảm xuống một chữ số nhưng những tiến bộ
vượt bậc đó đó không thể duy trì được và củng cố bằng những chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ thận trọng nên đến năm 1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên mức 14,4%.
a. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Tình hình kinh tế trong giai đoạn này đó có những thay đổi đáng kể , vì vậy lạm phát
xảy ra đã phản ánh được hậu quả tất yếu của tình hình lúc bấy giờ.
Trước hết , lạm phát xảy ra là do hiện tượng cầu kéo : Đến năm 1993, cùng với việc
đầu tư nước ngoài tăng cao (tăng 85,6% so với năm 1992) là việc các hãng nước ngoài
chuyển lợi nhuận về nước , do đó cầu ngoại tệ tăng cao làm cho giá USD tăng, đồng
tiền Việt Nam bị giảm giá từ 10.600 đồng/1USD vào năm 1993 đến
11.050đồng/1USD năm 1995. điều này tác động làm cán cân thương mại được cải
thiện , do đó tổng cầu trong nền kinh tế tăng.
Đồng thời năm 1998 Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thông qua tương đối
thông thoáng khiến cho đầu nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh .
Chi tiêu của Chính phủ trong thời gian này cũng tăng mạnh, trong đó có chi thường
xuyên và chi cơ bản. Cụ thể là:
Cải cách chế độ tiền lương, trợ cấp đối với các đối tượng chính sách xã hội. Đồng thời
trợ cấp cho các đối tượng bộ đội chuyển ngành và nghỉ, trợ cấp thôi việc cho một số
cán bộ công nhân viên chức do một số cơ quan nhà nước đóng cửa và không thể thích
ứng được với cơ chế thị trường đồng thời chi thường xuyên của ngân sách tăng nhanh.
Cũng từ năm 1992-1994, ngân sách nhà nước chi cho đường dây cao áp 500KV chiếm
phần lớn chi tăng thêm cho xây dựng cơ bản.
Nguyễn Trọng Phú Lớp Tài chính doanh nghiệp
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét