Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Kiểm định mô hình chuyển hoá rừng trồng Mỡ (Manglietia glauca Dandy) cấp tuổi III và IV (5 - <7 và 7 - < 9 tuổi) cung cấp gỗ nhỏ thành rùng cung cấp gỗ lớn tại Công ty Lâm nghiệp Yên Sơn – Tuyên


5
thụ khí CO
2
trong không khí, đạt hiệu quả cao về môi trường và góp phần
nâng cao đời sống của người dân.
Năm 2007 một nhóm sinh viên dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Vũ
Nhâm đã thực hiện đề tài “Quy hoạch chuyển hoá rừng trồng Mỡ
(Manglietia glauca Dandy) cấp tuổi III và IV (5-<7 và 7-<9 tuổi) cung cấp
gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn tại Công ty Lâm nghiệp Yên Sơn-
Tuyên Quang”. Cho đến nay cùng với sự thay đổi của th
ời gian, của khí hậu,
thì các mô hình chuyển hoá đó phát triển như thế nào, có đi đúng hướng
chuyển hoá hay không?, cấu trúc có gì thay đổi thì chưa có một nghiên cứu
nào về kiểm định các mô hình chuyển hoá rừng Mỡ ở Công ty Lâm Nghiệp
Yên Sơn- Tuyên Quang. Xuất phát từ thực tế đó nên tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài “ Kiểm địmh mô hình chuyển hoá rừng trồng Mỡ (Manglietia glauca
Dandy) cấp tuổi III và IV (5 - <7 và 7 - < 9 tuổi) cung cấp gỗ nhỏ thành
rùng cung cấp g
ỗ lớn tại Công ty Lâm nghiệp Yên Sơn – Tuyên Quang”.













6
Phần I
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Một số nhận thức về loài cây Mỡ, kiểm định và phân chia cấp tuổi.
1.1.1. Một số nhận thức về đặc điểm sinh thái, hình thái và giá trị kinh tế
của loài Mỡ(Manglietia glau Dandy)
Như chúng ta đã biết, loài Mỡ có tên khoa học là Manglietia glauca
Dandy, thuộc họ Ngọc Lan(Magnoliaceae). Phân bố tự nhiên ở Nam Trung
Quốc, Lào, Thái Lan,Việt Nam.
Ở Việt Nam, Mỡ là loài cây bản địa mọc tự nhiên h
ổn giao trong các
khu rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh ở một số tỉnh miền Bắc và miền Trung.
Mỡ được trồng ở Việt Nam từ năm 1932 và từ năm 1960 trở lại trồng đại trà ở
các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ,Yên Bái…
Về đặc điểm hình thái
: Mỡ là loài gỗ nhỏ, cao 20-25m, đường kính 30-
60cm. Thân đơn trục, thẳng, tròn đều, độ thon nhỏ. Tán hình tháp. Vỏ nhãn
màu xám xanh, không nứt, lớp vỏ trong màu trắng ngà, thơm nhẹ. Cành non
mọc thẳng với thân chính, màu xanh nhạt. Lá đơn mọc cách, hình trứng hoặc
trái xoan. Phiến lá dài 15-20cm, rộng 4-6cm. Hai mặt lá nhẵn, mặt trên màu
lục sẫm, mặt dưới nhạt hơn, gân lá nỗi rõ. Hoa màu trắng mọc lẽ đầu cành,
dài 6-8cm. Bao hoa 9 cánh, 3 cánh bên ngoài có màu phớt xanh. Nhị nhiều,
chỉ nhị ng
ắn. Nhị và nhuỵ xếp sát nhau trên đế hoa hình trụ. Nhuỵ có nhiều lá
noãn xếp xoắn ốc tạo thành khối hình trứng, vòi nhuỵ ngắn. Quả đại kép nứt
bung. Mỗi đại mang 5-6 hạt. Hạt nhẵn, vỏ hạt đỏ, thơm nồng.
Về đặc điểm sinh thái
: Mỡ là loài cây ưa sáng, nhưng lúc nhỏ cần ánh
sáng yếu, là cây tiên phong định vị phân bố trong rừng thứ sinh ở các đai thấp
dưới 500m so với mặt nước biển. Cây Mỡ sinh trưởng thích hợp ở những nơi
có nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 22-24
o
C, chiụ được nhiệt độ tối cao
tuyệt đối 42
o
C và tối thấp tuyệt đối -1
o
C, thích hợp với độ ẩm không khí hàng
năm khoảng 80%,lượng mưa hàng năm từ 1400mm - 2000mm. Cây Mỡ mọc

7
tốt ở những nơi đất sâu, ẩm, tơi xốp, thoát nước, thành phần cơ giới thịt đến
thịt nhẹ, đất feralit phát triển trên các loại đá mẹ macma chua.
Về đặc điểm sinh học
: Mỡ sinh trưởng tương đối nhanh. Trong trồng
rừng ở giai đoạn tuổi non, tăng trưởng hàng năm có thể đạt 1,5cm đường kính
và 1,5m chiều cao, sau đó sinh trưởng chậm dần, sau tuổi 20 tốc độ sinh
trưởng chậm rõ rệt. Mỡ là loài cây thường xanh, sinh trưởng nhịp điệu, thay lá
nhiều vào các tháng mùa đông. Cây 9-10 tuổi bắt đầu ra hoa kết quả. Hoa nở
vào tháng 2-4, quả chín vào tháng 9-10
Giá trị kinh tế
: Mỡ là loài cây có giá trị lớn về mặt kinh tế. Đây là loài
gỗ mềm, nhẹ, thớ thẳng, mịn, ít co rút, chịu được mưa nắng, ít bị mối mọt,
dác gỗ có màu trắng xám, lõi gỗ màu vàng nhạt hơi có ánh bạc. Gỗ Mỡ
thường được dùng làm nhà cửa, đóng đồ gia dụng, nguyên liệu giấy, gỗ trụ
mỏ, gỗ dán, lạng, bút chì…
1.1.2. Kiểm định
Kiểm định rừng là một l
ĩnh vực hoạt động còn rất mới ở Việt Nam.
Ngay cả các nước có nền Lâm nghiệp phát triển thì cũng còn nhiều tranh cãi
Kiểm định tiến hành định kỳ trong phạm vi cả chu kỳ kinh doanh và
đối với từng loài cây cụ thể
Mục đích của kiểm định nhằm xác định mức độ đáp ứng mục tiêu cung
cấp gỗ lớn của dự án đề ra trong từng giai đoạ
n nhất định.
Để thực thi hiệu quả kiểm định thì cũng phải xây dựng các tiêu chuẩn,
mỗi tiêu chuẩn có một số tiêu chí, mỗi tiêu chí được đo bằng hai mức. Mức 1
là tăng trưởng loài Mỡ khi chặt chuyển hoá bằng với khi chưa chặt. Mức 2 là
tăng tưởng của loài Mỡ sau khi chặt chuyển hoá nhanh hơn khi chưa chặt
chuyển hoá. Tiêu chuẩn đặt ra phải đáp ứng mục tiêu cung c
ấp gỗ lớn đặt ra
của dự án
1.1.3. Phân chia cấp tuổi
Có 3 cách để phân chia cấp tuổi như sau:
+ Phân chia cấp tuổi nhân tạo
+ Phân chia cấp tuổi tự nhiên

8
+ Phân chia cấp tuổi kinh doanh
Để tổ chức các biện pháp kinh doanh rừng người ta thường phân chia
rừng theo cấp tuổi nhân tạo, nghĩa là phân chia 3 năm, 5 năm hay 10 năm
một cấp, phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh và tốc độ sinh trưởng của cây.
Việc phân chia cấp tuổi có ý nghĩa lớn trong tính lượng khai thác và đề xuất
biện pháp kỹ thuật tác động vào nó.
Đối với loài Mỡ (Manglietia glauca Dandy) là loài cây mọc nhanh nên
kinh doanh gỗ lớn chu kỳ khoả
ng 20- 25 năm. Vì vậy số năm trong một cấp
tuổi là 3 năm là phù hợp chu kỳ kinh doanh và mục đích kinh doanh, bên cạnh
đó thì mỗi năm đường kính cây có thể tăng trưởng 1,4 - 1,5 cm vì thế sau 3
năm cây sẽ chuyển lên cỡ kính trên với khoảng cách cỡ kính là 4cm.
1.2. Các nghiên cứu trên thế giới về chuyển hoá rừng
1.2.1. Chuyển hoá rừng
Các nhà Lâm nghiệp Mỹ (1952) cho rằng Chuyển hoá rừng là quá trình
áp dụng các nguyên tắc kỹ thuật lâm sinh và phương pháp kinh doanh
để đạt
được mục đích kinh doanh.
Sự phát triển của khoa học chuyển hoá rừng gắn chặt với phát triển của
Lâm nghiệp. Hiện nay có nhiều chương trình quốc gia và quốc tế về chuyển
hoá rừng như: Chuyển hoá rừng thuần loài thành rừng hỗn loài, chuyển hoá
rừng gỗ lớn thành rừng gỗ nhỏ,…
Thực chất của chuyển hoá rừng là chặt nuôi dưỡng. Vì Chặt nuôi
dưỡ
ng có ưu điểm là thúc đẩy sinh trưởng nhanh, cải thiện điều kiện sống một
cách trực tiếp thích hợp cho lâm phần; là khâu quan trọng trong việc điều
khiển quá trình hình thành rừng và là biện pháp thay đổi định hướng phát
triển của cây rừng và lâm phần trước khi thu hoạch nhưng không thay thế nó
bằng một lâm phần mới (K. Wenger. 1984). Như vậy, “chặt nuôi dưỡng là
biện pháp chính để nuôi dưỡng rừng bằng cách ch
ặt bớt đi một số cây rừng
nhằm tạo điều kiện cho những cây phẩm chất tốt được giữ lại sinh trưởng,

9
nuôi dưỡng hình thân, tạo tán, tăng lượng sinh trưởng, cải thiện chất lượng
gỗ và nâng cao các chức năng có lợi khác của rừmg”
Chặt nuôi dưỡng không đặt mục tiêu tái sinh rừng và thu hoạch sản
phẩm trước mắt làm mục đích chính mà mục tiêu có tính chiến lược là: “Nuôi
dưỡng những cây tốt nhất thuộc nhóm mục đích kinh doanh”.
Các nhà lâm nghiệp Mỹ (1925) cho rằng chặt nuôi dưỡng là quá trình
áp dụng các nguyên tắc kỹ thuậ
t lâm sinh và phương pháp kinh doanh để đạt
được mục đích kinh doanh. Nước Mỹ chia chặt nuôi dưỡng ra làm 5 loại:
(1) Chặt loại trừ, chặt những cây chèn ép, không dùng, thứ yếu
(2) Chặt tự do, chặt bỏ những cây gỗ tầng trên
(3) Chặt tỉa thưa và chặt sinh trưởng
(4) Chặt chỉnh lý, chặt các loài cây thứ yếu, hình dáng và sinh trưởng
kém
(5) Chặt gỗ thải, chặt các cây bị hại.
Năm 1950 Trung quốc đã ban hành quy trình chặt nuôi dưỡ
ng chủ yếu
là dựa vào các giai đoạn tuổi của lâm phần, đưa ra nhiệm vụ và quy định thời
kỳ chặt và phương pháp chặt nuôi dưỡng. Thời kỳ phát triển khác nhau thì cây
rừng có những đặc điểm sinh trưởng khác nhau và do đó nhiệm vụ chặt nuôi
dưỡng cũng ở mức độ khác.
Phương pháp chặt nuôi dưỡng của Nhật Bản thường chia làm 2 loại:
Loại thứ nhất c
ăn cứ vào ngoại hình cây rừng chia ra 5 cấp để tiến hành chặt
nuôi dưỡng; nhưng do kỹ thuật của mỗi người khác nhau nên khó đạt được
một tiêu chuẩn nhật định. Loại thứ hai chia ra 3 cấp gỗ tốt, gỗ vừa và gỗ
xấu và yêu cầu phải có cùng đường kính trong không gian như nhau.
Phương pháp này đơn giản dễ thực hiện. Ngoài ra năm 1970 áp dụng
phương pháp cây ưu thế. Phương pháp này đơn giản d
ễ làm, chủ yếu dựa
vào giá trị sản xuất và lợi ích hiện tại. Ở Nhật Bản, người ta rất coi trọng
chặt nuôi dưỡng, từ năm 1981 đến nay chặt nuôi dưỡng trở thành chính
sách lớn nhất của Lâm nghiệp Nhật Bản

10
Tuy nhiên áp dụng chặt nuôi dưỡng cho chặt chuyển hoá cần phải
quan tâm đến điều kiện thực tế của lâm phần, nghĩa là chặt chuyển hoá là
chặt nuôi dưỡng nhưng cần phải bài chặt cả những cây có đủ không gian
dinh dưỡng nhưng không có khả năng sinh trưởng thành gỗ lớn đồng thời
chặt chọn ở những khoảng phân bố cụm.
Các nhà Lâm học Trung Quốc cho rằng: Trong khi rừ
ng chưa thành
thục để tạo điều kiện cho cây gỗ còn lại sinh trưởng phát triển tốt, cần phải
chặt bớt một phần cây gỗ. Ngoài ra thông qua chặt bớt một phần cây gỗ mà
thu được một phần lợi nhuận nên còn được gọi là “Chặt lợi dụng trung gian”
(Chặt trung gian).
Như vậy, chặt nuôi dưỡng là biện pháp chính để nuôi dưỡng rừng bằng
cách chắt bớt đ
i một số cây rừng nhằm tạo điều kiện cho những cây phẩm
chất tốt được giữ lại sinh trưởng, nuôi dưỡng hình thân, tạo tán, tăng lượng
sinh trưởng, cải thiện chất lượng gỗ và nâng cao các chức năng có lợi khác
của rừng.
Mục đích của chặt nuôi dưỡng đối với rừng trồng thuần loài là: Cải
thiện điều kiện sinh trưởng củ
a cây rừng; xúc tiến sinh trưởng cây rừng, rút
ngắn chu kỳ chăm sóc cây rừng; loại bỏ được cây gỗ xấu nâng cao chất lượng
lâm phần. Theo quy định chặt nuôi dưỡng rừng của Trung Quốc năm 1957,
chặt nuôi dưỡng chia làm 4 loại là: Chặt thấu quang, chặt loại trừ, chặt tỉa
thưa và chặt sinh trưởng (Chất lượng gỗ chia làm 3 cấp).
Một số yếu tố kỷ thuật của chặ
t nuôi dưỡng gồm:
+ Các phương pháp chặt nuôi dưỡng:
Các nghiên cứu cho thấy phân bố số cây theo cấp kính đều theo phấn
bố Parabol hoặc gần Parabol. Căn cứ vào độ lệch của đỉnh Parabol làm cơ sở
xây dựng các phương pháp chặt nuôi dưỡng. Phương pháp áp dụng có 3 loại:
Chặt nuôi dưỡng tầng dưới, chặt nuôi dưỡng chọn lọc và chặt nuôi dưỡng cơ
giới.

11
+ Để tiến hành nưôi dưỡng trước hết phải phân cấp cây rừng. Hiện nay
chủ yếu theo phân cấp của Kraff (1984). (Phương pháp này chia làm 5 cấp).
+ Xác định thời kỳ bắt đầu chặt nuôi dưỡng:
Để xác định kỳ bắt đầu chặt nuôi dưỡng cần phải tổng hợp tất cả các
yếu tố như: Đặc tính sinh vật học của cây; điều kiện lập đị
a; mật độ lâm phần;
tình hình sinh trưởng; giao thông vận chuyển; nhân lực và khả năng tiêu thụ
gỗ nhỏ. Từ góc độ sinh vật học, việc xác định kỳ bắt đầu chặt nuôi dưỡng
thường dựa vào các yếu tố sau:
- Mức độ phân hoá cây rừng: Việc xác định có thể dựa vào một số tiêu
chí sau: Phân cấp cây rừng; độ phân tán của đường kính lâm phần, tỷ lệ số cây
lâm phần theo cấp kính.
- Hình thái bên ngoài của lâm phần: Có thể căn cứ động thái hình tán
hay độ cao tỉa cành tự nhiên.
+ Xác định cường độ chặt nuôi dưỡng:
Cường độ chặt nuôi dưỡng là chặt bao nhiêu cây, để lại bao nhiêu cây
cũng là vấn đề thông qua việc chặt nuôi dưỡng điều chỉnh độ dày của lâm
phần. Xác định được cường độ chặt nuôi dưỡng hợp lý trong kinh doanh rừng
có một ý nghĩa rất lớn.
* Thể hiệ
n cường độ chặt nuôi dưỡng: Có 2 phương pháp.
- Tính theo tỷ lệ thể tích gỗ cây chặt chiếm trong thể tích gỗ toàn lâm
phần của mỗi lần chặt: P
v
= v\V*100% (v là thể tích của cây chặt, V là sản
lượng của lâm phần, P
v
là cường độ chặt).
- Dựa vào tỷ lệ số cây mỗi lần chặt chiếm trong tổng số cây toàn lâm
phần: P
n
= n\N*100% (Trong đó: n là số cây cần chặt, N là tổng số cây của
lâm phần, P
n
là cường độ chặt).
* Xác định cường độ chặt nuôi dưỡng: Có 2 phương pháp.
- Phương pháp định tính: Thường căn cứ vào phân cấp cây rừng, độ tàn
che hay độ đầy của lâm phần để xác định cường độ chặt nuôi dưỡng.

12
- Phương pháp định lượng: Căn cứ vào sinh trưởng của lâm phần và
mối quan hệ giữa các loài cây đứng trong các giai đoạn sinh trưởng khác
nhau. Căn cứ vào mật độ hợp lý mà xác định số lượng cây chặt hoặc bảo lưu.
Thường xác định theo quy luật tương quan giữa đường kính chiều cao và tán
cây.
+ Xác định cây chặt: Cần đào thải cây có phẩm chất xấu và sinh trưởng
kém, để lại những cây sinh tr
ưởng mạnh, cao lớn, tròn thẳng.
+ Xác định kỳ giãn cách – Chu kỳ chặt nuôi dưỡng:
Kỳ giãn cách dài hay ngắn cần xem xét tốc độ khép tán và lượng sinh
trưởng hàng năm, cường độ chặt nuôi dưỡng càng lớn thì kỳ giãn cách càng
dài. Kỳ giãn cách ở một số nước xác định từ 5 – 10 năm.
1.2.2. Các yếu tố kỹ thuật làm cơ sở xây dựng phương pháp kiểm định rừng
1.2.2.1. Sinh trưởng và tăng trưởng
Theo V.Bertalanfly (Wenk, G.1990) thì sinh trưởng là sự t
ăng lên của
một đại lượng nào đó nhờ kết quả của đồng hoá của một vật sống. Như vậy
sinh trưởng gắn liền với thời gian và thường được gọi là quá trình sinh trưởng.
Tăng trưởng là sự tăng lên về kích thước của một hoặc nhiều cá thể
trong lâm phần với khoảng thời gian cho trước (Vanclay, J.K.1999; Avery,
T.E.1995; Wenk, G.1990,…).
Nghiên cứu sinh trưởng và tăng trưởng của các loài cây gỗ
đã được đề
cập đến từ thế kỷ 18, nhưng phát triển mạnh mẽ nhất là sau đại chiến thế giới
lần thứ nhất. Về lĩnh vực này phải kể đến tác giả tiêu biểu như: Tuorsky
(1925), Tovstolev (1938), Chapmen và Mayer (1949), Grossman (1961,
1964),… nhìn chung các nghiên cứu về sinh trưởng của cây rừng và lâm
phần, phần lớn đều được xây dựng thành các mô hình toán học chặt chẽ và đã
được công bố trong các công trình của Mayer, H.A, và Stevenson, D.D
(1943), Schumacher, F.X và Coile, T.X (1960), Clutter, J.L, Allison, B.J
(1973), Alder (1980).

13
1.2.2.2. Các quy luật cấu trúc lâm phần
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp các thành phần cấu tạo nên quần thể thực
vật rừng theo không gian và thời gian. Cấu trúc là cơ sở quan trọng cho công
tác quy hoạch trong việc định hướng sự phát triển của rừng theo mục tiêu
kinh doanh lợi dụng. Ngay từ những năm đầu thế kỷ 20 đã có nhiều công
trình nghiên cứu về cấu trúc rừng nhằm phục vụ
cho sản xuất kinh doanh của
con người.
Những nghiên cứu về cấu trúc rừng phát triển từ thấp đến cao, từ chỗ
nghiên cứu chủ yếu là mô tả định tính sang nghiên cứu định lượng. Chúng ta
có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu trên thế giới như sau:
Catinot R và Plaudyi biểu diễn cấu trúc rừng bằng các phẫu đồ ngang
và đứng, Rollet 1971 đã đưa ra hàng loạt các phẫu đồ mô tả cấu trúc hình thái
rừng mưa trong đó nghiên cứu tương quan giữa chiều cao và đường kính
ngang ngực, tương quan đường kính tán và đường kính ngang ngực theo các
hàm hồi quy. Richards PW 1952 phân biệt tổ thành thực vật thành 2 loại rừng
mưa hỗn hợp và rừng đơn ưu.
Mục đích của chuyển hoá rừng là nâng cao sinh trưởng của lâm phần
và chất lượng gỗ, mà chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện được là D
1.3
, nhưng để
nghiên cứu tổng quát nên chúng tôi thực hiện nghiên cứu biến đổi của các quy
luật cấu trúc sau:
- Phân bố số cây theo đường kính ( N – D
1.3
)
Là một trong những quy luật quan trọng nhất của quy luật kết cấu lâm
phần. Nó phản ánh mức độ thích nghi của các loài cây trong quá trình sinh
trưởng và phát triển của các loài cây với điều kiện lập địa. Ngoài ra phân bố
số cây theo đường kính còn sắp xếp tổ hợp các thành phần cấu thành nên quần
thể thực vật rừng theo không gian và thời gian.
Nếu phân bố số cây theo đường kính hợp lý thì cây rừng sẽ tận dụng
được tối đa các tiềm năng của điều kiện lập địa, tạo ra năng suất sinh khối cao
nhất.
Reineke (1933) đã phát hiện đường kính tương quan với mật độ mà

14
không liên quan tới điều kiện lập địa, theo phương trình:
LogN = -1,605 log D + k ( k là hằng số thích ứng của một cây nào đó).
Giữa Dg và N luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết và thường được biểu
thị dưới dạng N= a.Dglog
b
Một số kết quả thực nghiệm của Smelko 1990 xác định mối quan hệ
giữa N và Dg cho một số loại sau:
Fichte N = 1348.Dg
-1.532

Kiefer N = 2195.Dg
-1.762

Eiche N = 1062.Dg
-1.565

Để nghiên cứu và mô tả quy luật cấu trúc đường kính ta có thể sử dụng
hàm Weibull, Prodan, Gamma…
- Tương quan H
vn
– D
1.3
Trong một lâm phần chiều cao và đường kính có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Nghiên cứu mối quan hệ này có thể hiểu được bản chất lâm phần và
qua đó sẽ đề xuất các giải pháp lâm sinh nhằm cải thiện cấu trúc rừng.
Mối quan hệ này được biểu thị rất phong phú theo các tác giả
Hohenald, Krenn, Michailoff, Naslund…
H= a
o
+ a
1
D + a
2
D
2

H -1.3 =D
2
/(D+ b.D
2
)
H= a.D
b

H= a + blogD
….
-Tương quan D
1.3
– D
T
Một số nghiên cứu của các tác giả: Zieger(1928), Cromer
O.A.N.(1948), Miller(1953)… và phổ biến nhất là dạng đường thẳng.
1.2.3. Nhận xét
- Các nghiên cứu, ứng dụng mô hình chặt nuôi dưỡng trên thế giới đã
hoàn thiện.
- Chúng ta vận dụng các nghiên cứu đó vào chặt chuyển hoá rừng ở
Việt Nam và kiểm định lại mô hình đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét