§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế, phương pháp kế hoạch hoá
quản lý theo các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rãi từ năm 1992.
Kế hoạch hoá và quản lý theo các chương trình phát triển là đưa ra các chương
trình mục tiêu để xử lý những vấn đề nổi cộm về kinh tế-xã hội của đất nước. Đây
là một phương pháp quản lý vừa mang tính đặc biệt lại vừa mang tính nghệ thuật
cao. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ nó vưa khác hẳn các phương pháp khác về cơ
chế, chính sách, cách điều hành, kiểm tra, đánh giá kết quả, đối tượng hưởng
thụ… Còn tính nghệ thuật là phải làm sao chọn đúng đối tượng các vấn đề cần xử
lý bằng các chương trình. Tính nghệ thuật này còn được thể hiện trong khả năng
lồng ghép các chương trình trong tổ chức chỉ đạo.
4.2.Chức năng
Cụ thể hoá kế hoạch, đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tiễn cuộc sống. Có thể
gọi đây là một phương pháp tiến hành của kế hoạch. Với chức năng này, một
chương trình quốc gia phải đảm bảo các mục tiêu cụ thể, các chỉ tiêu biện pháp và
các giải pháp thực hiện.
Xử lý các vấn đề gay cấn nhất về kinh tế-xã hội của một quốc gia. Các vấn
đề cần phải xây dựng và quản lý bằng chương trình quốc gia là các vấn đề bức
xúc, các khâu đột phá, các mắt xích quan trọng của nền kinh tế.
Hiện nay theo xu hướng đổi mới kế hoạch hoá, các chương trình dự án phát
triển lại được xem như là cơ sở để thực hiện phân bố nguồn lực như: Vốn đầu tư,
ngân sách… thay cho hình thức phân bổ theo đối tượng như trước kia.
5. Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội
5.1.Vị trí trung tâm của KH 5 năm
Nghị quyết đại hội 9 Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “xây dựng kế
hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoách hoá phát triển”.
Thời hạn 5 năm là thời hạn thường trùng lặp với nhiệm kỳ làm việc của cơ quan
chính phủ, là thời hạn ma theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau một năm hoặc một
vài năm. Những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường chính xác hơn, dễ thực thi
hơn những kế hoạch có thời hạn dài hơn.
Líp: KÕ ho¹ch 44
5
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển
trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Nó xác định các mục tiêu, chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm và xác định các
cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển
của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế
tư nhân. Nội dung chủ yếu của việc lập kế hoạch 5 năm bao gồm:
- Xác định nhiệm vụ tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn 5 năm như: Mục tiêu tămg trưởng kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động tiết kiệm, các chỉ tiêu về phúc lợi xã
hội.
- Xác định các chương trình và lĩnh vực phát triển. Các vấn đề được đưa vào
chương trình và lĩnh vực phát triển có sự lựa chọn, nó thực sự phải là các vấn
đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Các chương
trình phát triển chính là cơ sở để hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu phát
triển của kỳ kế hoạch 5 năm.
- Phần các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm sẽ bao gồm hai nội dung cơ bản:
Thứ nhất là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tư, cân đối
xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua của toàn xã hội;
xác định các khả năng thu hút vốn cả trong và ngoài nước, đồng thời xác định
những quan hệ lớn về phân bổ đầu tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp,
nông nghiệp và các lĩnh vực văn hoá, xã hội; xác định các quan hệ cung cầu
một số vật tư hàng hoá chủ yếu. Thư hai là xây dựng, hoàn thiện những vấn đề
cơ chế quản lý và các vấn đề tổ chức thực hiện.
5.2. Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm
Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm áp dụng ở Việt Nam và các nước
đang phát triển là xây dựng kế hoạch 5 năm theo giai đoạn cố định, ví dụ như kế
hoạch 5 năm 1996-2000; kế hoạch 5 năm 2001-2005… Các chỉ tiêu kế hoạch được
tính cho cả thời kỳ 5 năm, bình quân năm hoặc con số năm cuối. Đây là phương
pháp truyền thống dễ xây dựng, dễ quản lý, dễ đánh giá. Hiện nay, các nước như
Cộng hoà Pháp, Nhật Bản hay Đức đã áp dụng thành công phương pháp xây dựng
Líp: KÕ ho¹ch 44
6
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
kế hoạch 5 năm theo hình thái “cuốn chiếu”. Kế hoạch 5 năm sẽ xác định các mục
tiêu tổng thể, bao gồm kế hoạch chính thức 1 năm đầu, kế hoạch thực hiện dự tính
cho năm chính thức 1 năm đầu, kế hoạch thực hiện dự tính cho năm kế thứ hai và
dự báo cho các năm tiếp theo. Mức độ chi tiết, cụ thể và chính xác của nội dung kế
hoạch của nhưng năm sau phụ thuộc vào số lượng và độ tin cậy của thông tin có
được. Kế hoạch 5 năm sẽ được xem xét vào thời gian cuối mỗi năm. Khi cơ quan
kế hoạch Quốc gia hoàn tất năm đầu kế hoạch, họ bổ sung cho những dự trù,
những mục tiêu, những dự án cho năm tiếp theo. Ví dụ, kế hoạch 2001-2005 sẽ
được xem xét vào cuối năm 2001 và đề ra kế hoạch mới cho thời kỳ 2002-2006,
trên thực tế kế hoạch được đổi mới vào thời gian cuối mỗi năm nhưng số năm vẫn
giữ nguyên. Kế hoạch 5 năm được xây dựng theo phương pháp cuốn chiếu sẽ khắc
phục được tính nhất thời, tuỳ tiện và thậm chí trái ngược nhau trong các mục tiêu
cũng như trong các chính sách kinh tế. Phương pháp này đã được đưa ra trong
nhiều đề án đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam.
II. Sự cần thiết phải thực hiện kế hoạch 5 năm chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
1. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.1.Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan
hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian
nhất định, trong những điều kiện cụ thể, hướng vào thực hiện các mục tiêu đã
định.
Cơ cấu kinh tế thường gồm ba phương diện hợp thành. Đó là:
- Cơ cấu nghành kinh tế
- Cơ cấu thành phần kinh tế
- Cơ cấu vùng lãnh thổ
Chỉ tiêu kinh tế làm cơ sở để biểu hiện cơ cấu là GDP(tổng sản phẩm nội
địa).
Líp: KÕ ho¹ch 44
7
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Cơ cấu nghành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ,
biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành
kinh tế phản ánh phần nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội của một quốc gia.
Cơ cấu kinh tế lãnh thổ được hình thành bởi việc bố trí sản xuất theo không
gian địa lý. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều
kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tuỳ theo tiềm năng phát triển kinh tế, gắn
liền với sự hình thành và phân bố dân cư trên lãnh thổ để phát triển tổng hợp hay
ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm
bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế trên lãnh thổ và
trên pham vi cả nước.
Cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ
sở hữu khác nhau có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc
đẩy phân công lao động xã hội. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác
động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng, lãnh thổ trong quá trình phát triển.
Ba loại hình cơ cấu trên đặc trưng cho cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quôc
dân. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cơ cấu ngành kinh tế có
vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được
hình thành và phát triển trên pham vi vùng lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Đồng
thời, việc phân bổ sản xuất trên pham vi vùng lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các ngành và các thành phần kinh tế
trên vùng lãnh thổ.
1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế lại có thể xét thấy trên nhiều góc độ. Với việc xem
xét các các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ cấu kỹ thuật. Thông thường cơ
cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh cơ cấu ngành. Sự
chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên
thì tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp.
Líp: KÕ ho¹ch 44
8
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tế học là E.
Engel và A. Fisher ngiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chỉ tiêu và sự
thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E. Engel đã nhận thấy rằng, khi
thu nhập các gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm đi
nên tất yếu dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi
thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương thực,
thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu tiêu dùng cho các
loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết
yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là
hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung
là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp
với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp có tốc độ tăng
nhanh hơn.
Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm E.Engel, quy luật tăng năng suất lao
động của A.Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế qua việc
phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và
các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Kết
quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng
lao động như cũ, có nghĩa là tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm đi. Ngược
lại, tỉ lệ lao động thu hút vào công nghiệp sẽ ngày càng tăng do tính co giãn về nhu
cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ
kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ.
1.3. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là mang tính quy luật,
nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả các nước.
Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như cần ưu tiên cho
nông nghiệp đến mức độ nào đó so với công nghiệp trong thời kỳ đầu phát triển,
các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua các thời kỳ. Do đó, nhiệm vụ
đặt ra cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là:
Líp: KÕ ho¹ch 44
9
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
- Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Nó bao hàm các vấn đề kinh tế-xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan
hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước.
- Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng các quan hệ tỉ
lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản
ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể.
- Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn
đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo cơ cấu đầu ra theo hướng đã định.
- Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế-xã hội cần thiết để hướng dẫn hoạt
động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.
2. Nội dung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.1. Xác định cơ cấu kinh tế
Để xác định cơ cấu ngành trong kỳ kế hoạch, phương pháp được sử dụng phổ
biến là dựa vào mô hình Vào-Ra. Mô hình này nghiên cứu những mối liên hệ tỉ lệ
cân đối đặc trưng cho việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ
giữa khối lượng sản phẩm và chi phí để sản xuất ra những sản phẩm này.
Việc phân phối sản phẩm trong nền kinh tế được đặc trưng bằng quan hệ tỉ lệ:
Xi = Xi1 +Xi2 + +Xin + Yi (i = 1,2, ,n) (1)
trong đó:
Xi: tổng sản phẩm của ngành i
Xij: khối lượng sản phẩm ngành i tiêu dùng cho sản phẩm ngành j với tư cách là
chi phí trung gian.
Yi: khối lượng sản phẩm cuối cùng của ngành i.
Tổng số ij phản ánh khối lượng sản phẩm ngành i sẽ tiếp tục chế biến trong các
ngành sản xuất, lượng sản phẩm này được gọi là sản phẩm trung gian. Sản phẩm
cuối cùng (Yi) là những sản phẩm được đưa ra khỏi sản xuất hàng năm được dùng
Líp: KÕ ho¹ch 44
10
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
để bù đắp hao mòn, sử dụng cho tiêu dùng, tích luỹ và khối lượng chênh lệch xuất-
nhập khẩu.
Khi xây dựng mô hình Vào-Ra người ta thường giả thiết rằng khối lượng sản
phẩm của ngành i tiêu dùng cho ngành j tỉ lệ thuận với khối lượng sản phẩm của
ngành j:
Xị = aij Xj (i,j = 1,2, ,n) (2)
trong đó aij là hao phí trực tiếp sản phẩm ngành i để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm ngành j - được gọi là hệ số hao phí trực tiếp. Hợp nhất phương trình (1) và
(2) sẽ có:
Xi = aij Xj + Yi (i=1,2, ,n)
Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa vào kế
hoạch của sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực tiếp phù hợp
với trình độ kỹ thuật của từng ngành.
2.2. Các yếu tố tác động đến cơ cấu ngành
Sự hình thành cơ cấu ngành thực chất là kết quả của việc phân phối các yếu tố
đầu vào và cách thức tổ chức sản xuất. Nói chung, trong mỗi ngành càng có nhiều
vốn, nhiều lao động, kỹ thuật tiên tiến, tổ chức sản xuất ngày càng khoa học thì
năng lực sản xuất ngày càng tăng. Do vậy, cơ cấu ngành cũng là mô hình phân bố
các yếu tố sản xuất các ngành. Nó vừa là sự phân phối tài nguyên, lao động, vừa là
sự phân phối máy móc, thiết bị, các yếu tố trung gian và kỹ thuật. Trong mô hình
trên, hệ số chi phí trực tiếp aij phản ánh hao phí sản phẩm cần thiết của ngành i để
trực tiếp sản xuất ra một đơn vị sản phẩm ngành j.
Trong thời kỳ kế hoạch, hệ số này phụ thuộc trình độ công nghệ sản xuất, cho
nên cũng được gọi là hệ số kỹ thuật. Để xem xét sự tác động của hệ số kỹ thuật
đối với cơ cấu ngành chúng ta giả đình rằng cơ cấu các yếu tố trung gian đầu vào
không thay đổi. Trong điều kiện đó, nếu tình hình kỹ thuật của các ngành công
nghiệp không thay đổi, hoặc thay đổi theo cùng một hướng, với cùng một tỉ lệ tốc
độ thì hệ số hiệu suất đầu ra của các yếu tố đầu vào giữa các ngành cũng không
thay đổi. Nếu kỹ thuật của một số ngành thay đổi, còn ở những ngành khác vẫn
Líp: KÕ ho¹ch 44
11
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
như cũ, hoặc tốc độ thay đổi, còn ở những ngành khác vẫn như cũ, hoặc tốc độ
thay đổi kỹ thuật của các ngành không giống nhau thì hế số hiệu suất đầu ra của
các ngành cũng thay đổi. Xét trong thời ngắn hạn, có thể có trường hợp thứ nhất,
nhưng trong dài hạn thì chỉ có thể xảy ra trong trường hợp sau:
Như vậy tiến bộ kỹ thuật là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi
này lại là yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ kỹ
thuật thúc đẩy ngành mới ra đời. Tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức mạnh cạnh tranh
quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong trường hợp hệ số
kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu thay đổi cơ cấu tài sản cố định và tỉ lệ
các yếu tố trung gian đầu vào thì năng lực sản xuất của tài sản cố định gia tăng và
theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các ngành này cũng sẽ gia tăng sản
phẩm đầu ra. Sự thay đổi cơ cấu tài sản cố định và các yếu tố trung gian đầu vào
chính là kết quả của sự thay đổi cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư là tỉ lệ phân phối vốn
đầu tư vào các ngành khác nhau. Do đó, có thể nói cơ cấu đầu tư là yếu tố quyết
định đối với cơ cấu ngành.
Líp: KÕ ho¹ch 44
12
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ
HOẠCH 5 NĂM 2001-2005 VỀ CHUYỂN CHỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ
I. Mục tiêu của kế hoạch đề ra 2001-2005 về chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
1.Mục tiêu chung
Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt ra mức phấn đấu cao trong kế hoạch 5 năm
2001-2005 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững: ổn định và cải thiện đời
sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
công ngiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo việc làm, cơ bản xoá đói,
giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; hình thành một bước quan trọng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an
ninh quốc gia”.
2. Các chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu ngành
2.1. Chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng các ngành
Tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng bình
quân hàng năm là 7.5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,0-4.3%, công
nghiệp và xây dựng tăng 10.4%-10.8%, dịch vụ tăng 6.2%-6.8%. Giá trị sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4.8%/năm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng
13%/năm; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 7.5%. Tổng kim ngạch xuất
khẩu tăng 16%/năm.
2.2. Chỉ tiêu về thay đổi tỉ trọng của các ngành trong GDP
Đến năm 2005:
-Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP khoảng 20-21%
Líp: KÕ ho¹ch 44
13
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
-Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP khoảng 38-39%
-Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP khoảng 41-42%
3. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1. Công nghệ
Công nghệ là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi này lại là
yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành. Thực tế cho ta thấy sự tác động của tiến
bộ kỹ thuật đến cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ kỹ thuật làm nâng cao
năng suất lao động, tác động đến cơ cấu lao động và tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức
cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong trường
hợp hệ số kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu năng lực sản xuất của tài sản
cố định gia tăng và theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các ngành này
cũng sẽ tăng sản phẩm đầu ra.
3.2. Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là tỉ lệ phân phối vốn đầu tư vào các ngành khác nhau. Vì thế,
xác định tỷ lệ, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành, theo các lĩnh vực, đối tượng, khu vực
đầu tư là một công việc rất quan trọng bởi vì điều đó đặt ra mối quan hệ chặt chẽ
giữa kế hoạch vốn đầu tư với các kế hoạch về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các
đặc trưng đầu tư của từng ngành, vùng, các thành phần kinh tế. Do đó, có thể nói
cơ cấu đầu tư là yếu tố quyết định đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
3.3. Xu hướng chung của các nước trên thế giới
Xu hướng chuyển mạnh sang các ngành kinh tế tri thức, các ngành công
nghiệp cao sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh của các nguồn tài nguyên và lao động ở
nước ta.
Sự chuyển đổi và giao lưu công nghệ quốc tế sẽ tạo ra các điều kiện thuận lợi
để nước ta có thể lựa chọn và tiếp nhận các công nghệ thích hợp với điều kiện cụ
thể của nước ta, phát triển những ngành và sản phẩm mới có triển vọng và phù hợp
với trình độ phát triển và lợi thế so sánh của nước ta.
Líp: KÕ ho¹ch 44
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét