Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt của nhà triết học

Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
phân công lao động và hợp tác sản xuất vợt ra khỏi biên giới một quốc gia vơn tới qui
mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lợng mới.
Nh vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản xuất,
của tốc độ phát triển nhanh của lực lợng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa
học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng nền
kinh tế thị trờng trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự
mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lu phổ biến của
loài ngời và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách
khác, nó là kết quả của các quá trình tích luỹ về số lợng đã tạo ra một khối lợng tới hạn
để số lợng biến thành chất mới; xu hớng quốc tế hóa, khu vực hoá đã chuyển thành xu
hớng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu
do quy luật phát triển của lực lợng sản xuất chi phối.
Và trong đó đặc trng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn
tại và phát triển nh một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ t-
ơng tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn cầu hoá kinh
tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thế tự quyết
định ý thức hệ, vận mệnh và con đờng phát triển của mình. Toàn cầu hoá kinh tế làm
cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên
liệu và thị trờng. Đến nay toàn cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các
châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động [ Thẩm Kỳ
Nh Trung Quốc không làm bất tiên sinh Viện TTKH, Học viện CTQG HCM,
H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển mới cha từng có. Lịch sử đã chứng tỏ không
một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể sản xuất đợc tất cả các sản
phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm về trớc Trung Quốc đóng
cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành tựu có đợc nh ngày nay là
nhờ vào mở cửa kinh tế.Nh vậy rõ ràng xu thế này là xu thế phát triển tất yếu của thời
đại không thể khác đợc. Chỉ có những quốc gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận
dụng cơ hội, vợt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khớc từ toàn
cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát triển.
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
II. cơ sở thực tế :
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội nhập.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế n-
ớc ta trên trờng quốc tế. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trơng phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.[Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX trang 89] Chủ trơng hội nhập kinh tế quốc tế đợc đề ra trong bối cảnh tình
hình thế giới và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lờng trớc đợc, với những
đặc điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng đều.
Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng
hoảng kinh tế tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nớc và các khu vực thay đổi theo
hớng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt
đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh nh các thập kỉ trớc; kinh
tế Nhật suy thoái cha có lối ra; các nớc thuộc Liên Xô trớc đây và nớc Đông Âu rơi vào
tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trởng tơng đối khá; kinh tế Trung
Quốc phát triển ngoạn mục; Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế
giới trong những thập kỷ trớc, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi
phục; Nam á và Châu Phi vẫn cha thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ
latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển nh vũ bão. Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nớc trên thế
giới với những mức độ khác nhau, đa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho nhân loại
và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân lõi của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản
xuất, trong đó hàm lợng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh
học là bớc đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự sống, tạo ra một tiềm năng to lớn
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
cho việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con ngời nh lơng thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng
của con ngời. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lợng mới, công nghệ hàng
không vũ trụ mở ra một tiềm năng mới cho loài ng ời chinh phục tự nhiên, chinh
phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất ngày càng giải phóng con ngời khỏi những
công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hởng đến cuộc sống của tất cả
các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và
tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Nền sản xuất
thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đạt tới trình độ ngày càng cao.
Phơng châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nớc làm phân xởng
của mình, qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng u thế kỹ thuật, tiền vốn,
sức lao động và thị trờng của các nớc, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất phát triển
nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hớng liên kết kinh
tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thơng mại, tài chính quốc
tế và khu vực, nh Tổ chức thơng mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực thơng mại tự do Bắc Mỹ
(AFTA)
Hiện nay, các nớc lớn, nhỏ đều giành u tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi
chính sách kinh tế mở. Nay những nớc có tiềm năng và thị trờng lớn nh Trung Quốc,
Nga, ấn Độ, Mỹ và cả một số n ớc vốn khép kín, theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần
dần mở cửa, từng bớc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trớc những vấn đề toàn cầu mà không
một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phơng nh:
bảo vệ môi trờng, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội
phạm quốc tế
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nớc công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ, do
có u thế về thị trờng, nắm đợc tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh tế phát triển
cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trờng thế giới, áp đặt điều kiện với những nớc
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo nh bao vây cấm vận, trừng
phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nớc đang phát triển và chậm phát triển. Trớc tình hình
đó các nớc đang phát triển đã từng bớc tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách
tăng cờng quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình
đẳng, công bằng.
ở khu vực Đông Nam áđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998, song vẫn là
khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý kinh tế của mình, dung l-
ợng thị trờng lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, đợc đào tạo tốt, có quan hệ
quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều
thách thức gay gắt đối với nớc ta trong quá trình phát triển đất nớc nói chung và quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2. Hội nhập kinh tế với các nớc đang phát triển
Thế giới ở vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ đang chứng kiến những đổi
thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần xã hội.
Toàn cầu hoá nổi lên nh một trong những xu hớng chủ đạo chi phối hệ thống quan hệ
quốc tế hiện đại. Xét trên phơng diện sản xuất vật chất xã hội, một giai đoạn mới của
lịch sử nhân loại đang từng bớc quá độ từ xẫ hội gắn với nền văn minh công nghiệp lên
nấc thang phát triển cao hơn. Nấc thang phát triển này đợc đặc trng bởi công nghệ và cơ
cấu kinh tế mới kinh tế tri thức, trên cơ sở áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến, các phơng tiện truyền tin hiện đại và máy tính.
Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phổ biến theo hớng
nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động, những mô
hình cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học, kỹ thuật. Trong đó các nớc đang
phát triển tham gia với động lực cơ bản là nhằm mở rộng thị trờng xuất khẩu, tạo mối
liên kết thơng mại giữa các quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức phong phú, hoạt
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
động có hiệu quả. Và cho đến nay, một số các quốc gia đang phát triển đã đạt đợc
những tiến bộ vợt bậc ví nh : ở khu vực Đông Nam á có Thái Lan, Malayxia, Singapo
đã chuyển mạnh sang kinh tế hớng về xuất khẩu và thu đợc những thành quả tốt.
Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết thơng mại thì chính sách tỷ giá,
chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan đã làm
cho hoạt động thơng mại tại các nớc mở rộng thị trờng và tăng khối lợng hàng hoá xuất
nhập khẩu.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là thị trờng vốn
có mối liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nớc đang phát triển có cơ hội hội nhập với thị
trờng tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm soát đối với đồng vốn chảy vào,
đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao dịch thông qua tài
khoản. Hiện nay, nhiều nớc đã chấp nhận thả nổi đồng tiền, đã làm cho đồng vốn đổ
vào các nớc này tăng nhanh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc ổn
định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trờng thu hút vốn, một
mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ từ đó cải thiện mức thâm hụt ngân
sách. Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo niềm tin cho các chơng trình phát triển
hỗ trợ cho những quốc gia thành công trong cải cách kinh tế và mở cửa.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu
nhập tơng đối của các tầng lớp dân c.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh to lớn.
Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào. Tuy
nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa t bản hiện đại với u thế về vốn và công nghệ
đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lợc biến quá trình toàn cầu hoá nói chung và toàn cầu
hoá kinh tế nói riêng thành quá trình tự do hoá kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo
t bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các nớc, nhất là các nớc đang phát triển, đều phải tìm
kiếm các đối sách để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình diện và đầy nghịch
lý.
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cờng, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành đợc độc lập dân
tộc và chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế xã hội của các nớc chậm phát triển
và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại về sự tụt hậu so
với trình độ của các nớc phát triển. Khoảng cách ấy không những không đợc khắc phục,
rút ngắn mà còn thực sự trở thành nguy cơ chia cắt thế giới làm hai nửa khác biệt: vài
chục quốc gia tiên tiến đã vợt hơn 100 quốc gia thuộc thế giới thứ ba hàng vài thập
niên phát triển hoặc gấp trăm lần chênh lệch về thu nhập bình quân GDP tính theo đầu
ngời.
Các nớc này tuy đã giành đợc độc lập, đó là một thành quả vô cùng quan trọng,
song các nớc này hầu hết lại là các nớc nghèo, còn lạc hậu. Cho nên, họ vẫn bị phụ
thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa t bản : từ khai thác sử dụng tài nguyên,
quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật công nghệ đến thị trờng tiêu thụ cũng nh phân công
lao động quốc tế Các n ớc đang phát triển đang phải đối diện trớc thách thức của nguy
cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Bởi một cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý, trong
đó tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập quốc dân, cộng thêm với
trình độ thấp kém về năng suất lao động, cho nên tốc độ phát triển kinh tế của đa số các
nớc đang phát triển thấp và bấp bênh. Trong thập niên 60, các nớc đang phát triển đạt
mức tăng trởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3% thì đến thập niên 80 là 2% và những năm
vừa qua của thập niên 90 tuy tình hình có đợc cải thiện, song cũng chỉ đạt mức trên 4%
trong khi tỉ lệ tăng dân số vẫn còn ở mức trên 2%/năm.
Không những thế vấn đề nợ nớc ngoài cũng trở thành gánh nặng đối với các nớc
đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nớc ngoài của các nớc
này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ 6 tỉ năm 1995 lên trên 2000 tỉ đầu
năm 2000. Trong đó, có những nớc mà tổng số nợ đã vợt xa so với tổng thu nhập quốc
dân. Những bi kịch về nợ nớc ngoài của các nớc đang phát triển không chỉ đợc biểu
hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà còn là tình trạng nhiều nớc không có khả năng thanh
toán dù chỉ là lãi suất hằng năm, trong khi dó tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và
không hề có dấu hiệu giảm bớt.
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch thơng
mại giữa các nớc đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao đổi không ngang
giá, các nớc phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.
Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa sản phẩm của
các nớc đang phát triển khi thâm nhập thị trờng các nớc phát triển. Qua con đờng đầu t,
chuyển giao kỹ thuật công nghệ, các cờng quốc t bản không chỉ thu lợi do bán các
thiết bị công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm mà còn khống chế nhiều huyết mạch kinh tế
quan trọng của các nớc đang phát triển. Còn các nớc đang phát triển, do áp lực bức
bách của nhu cầu cải thiện đời sống kinh tế, đã dễ dàng chấp nhận chào đón bất kỳ sự
cải tiến kỹ thuật công nghệ nào, bất kỳ nguồn vốn t bản nào. Sự đơn giản dễ dãi này,
mặc dù trớc mắt có thể thúc đẩy tăng trởng kinh tế, song rất có thể phải trả giá đắt bởi
các hậu quả kinh tế xã hội khó lờng. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật công nghệ, cơ cấu
kinh tế, mô hình kinh tế xã hội đang đặt ra những tiêu chuẩn phức tạp hơn để có thể
tận dụng mọi cơ hội phát triển cho cả ngày mai, không chỉ vì những cái lợi tức thời trớc
mắt.
Đó là những vấn đề trên con đờng hợp tác giữa các nớc đang phát triển và các n-
ớc phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nớc đang phát triển với nhau thì sao? Con đờng
này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nớc này đều có sự tơng đồng về trình độ phát
triển cũng nh các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân lực và thị trờng trong khi tất cả
đều thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ và tri thức quản lý hiện đại. Hơn nữa, những lợi
thế nêu trên dới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hoá
hiện nay không còn có vai trò, ý nghĩa nổi bật nh các thập niên trớc đây. Điều đó cho
thấy, các nớc đang phát triển cần thiết phải có cách tiếp cận mới trong hợp tác cùng
nhau. Chỉ có nh vậy, khuôn khổ và cơ chế hợp tác mới thực sự trở nên hữu ích và thiết
thực đối với các nớc đang phát triển. Đồng thời, nó đóng góp và việc phối hợp các nỗ
lực chung của các nớc đang phát triển nhằm từng bớc khắc phục và hạn chế những hậu
quả tiêu cực của toàn cầu hoá cũng nh trong quá trình xúc tiến quan hệ với các nớc phát
triển.
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhng đó cũng là
một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát triển, thôi thúc họ
tìm lời giải tối u. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực và kết hợp với chủ động
mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện tiên quyết chìa khoá
hữu hiệu để giải mã bài toán này trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay.
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trơng hội nhập kinh tế quốc tế ở nớc ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nớc
không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nớc ta. Nó là sự kế thừa,
phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nớc, những luận điểm
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới
ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà
báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: chúng ta hoan nghênh
những ngời Pháp muốn đem t bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu cha có
ai khai thác Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng nh Mỹ, Nga hay
Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia (Hồ Chí
Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74)
Quán triệt t tởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trớc, nớc
ta đã gia nhập Hội đồng tơng trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào không
liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật
tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nớc trong cộng đồng
XHCN, nớc ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nớc t
bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh
tế, cô lập về chính trị đối với nớc ta.
Trong thời kì đổi mới, chủ trơng mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế càng đợc thể hiện rõ nét và đợc thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ VI của
Đảng họp tháng 12 1986 đã chính thức khởi xớng công cuộc đổi mới nhằm đa nớc
tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế xã hội. Việc triển khai Nghị Quyết Đại hội
Trờng Đại học KTQD Tiểu luận Triết
lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu
những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nớc này, Liên bang Xô Viết tan rã,
Hội đồng tơng trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đờng lối đổi mới, Đại
hội và các hội nghị Trung ơng tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính
trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ơng VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình
hình thế giới, đề ra các chủ trơng và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình
với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối với n-
ớc ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nớc ta đã thông qua
Luật đầu t với nớc ngoài với những quy định khá thông thoáng.
Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bớc đột phá mới: thông qua C-
ơng lĩnh của Đảng và Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế xã hội 10 năm, đồng
thời đa ra những đờng lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: Với chính sách đối ngoại
rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển. Hội nghị Trung ơng lần
thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra t tởng chỉ đạo
là giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo.
Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nớc ta cũng
nh diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tợng nớc ta có
quan hệ. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phơng châm: bảo đảm lợi ích dân tộc,
trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nớc với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cờng, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phơng
hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc
tế; u tiên hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nớc.
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trơng xây dựng một
nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Hội nghị
Trung ơng 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị tr-
ờng quốc tế, tiến hành khẩn trơng, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thơng mại với
Mỹ, gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết
trong khuôn khổ AFTA.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét