doanh nghiệp tư nhân, công tyTNHH, công ty Cổ phần, công ty liên doanh và các
đơn vị theo hình thức Hợp tác xã.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã có sự
phát triển nhanh chóng và đạt một số kết quả nhất định. Với chính sách khuyến
khích và hỗ trợ hoạt động cho thành phần này, số lượng các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1991 mới chỉ có 123 doanh
nghiệp với số vốn điều lệ là 63 tỷ đồng thì đến năm 1996 đã có 26.091 doanh
nghiệp với số vốn điều lệ lên tới 8.257 tỷ đồng. Đến năm 2004, kinh tế ngoài quốc
doanh đã có 3.820 hợp tác xã, 31.667 doanh nghiệp tư nhân và 1.286.300 hộ kinh tế
cá thể và 1.826 công ty cổ phần.
Ở nước ta hiện nay,xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp,thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác
xã, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh.
Công ty là loại hình doanh nghiêp hoạt động theo luật công ty,là đơn vị kinh
tế do các cá nhân bỏ vốn thành lập theo luật doanh nghiệp,trách nhiệm quyền hạn
cũng như lợi nhuận được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.Công ty có hai loại:
*Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần.
- Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy
định pháp luật về chứng khoán.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công
ty.
*Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả
các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần góp vốn
được ghi trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại
chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện
tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người không phải là thành viên phải
Trang 5
được sự nhất trí của các thành viên đại diện với ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công
ty.
*Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn để sản
xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên tắc bình
đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên nhằm kết hợp
sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh
và đời sống. Cơ quan cao nhất là Đại hội xã viên, cơ quan quản lý các hoạt động của
hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác xã được xã viên bầu theo luật hợp tác xã.
*Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh.
*Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân hoặc hộ
gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường xuyên thuê lao
động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh.
Bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và từng bước hoàn
thịên đã và đang thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế.Tuy nhiên,sự phát
triển của kinh tế ngoài quốc doanh cần sự quan tâm rất nhiều của Đảng và Nhà nước
và sự nỗ lực của mọi ngành, mọi cấp.
1.1.2.Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
- Những đặc điểm về khả năng tài chính
Trong khu vực kinh tế tư nhân, ngoại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, nguồn tài chính ban đầu chủ yếu dựa vào tích luỹ cá nhân, gia đình, bạn
bè. Trong quá trình hoạt động, nhu cầu vốn được huy động phần lớn từ các nguồn:
lợi nhuận gửi lại, vay của người thân, vay của khu vực thị trường tín dụng không
chính thức, chỉ một phần nhỏ được tài trợ bởi tín dụng ngân hàng. Nguyên Tổng Bí
thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười đã có lần đề cập vấn đề mà Việt
Nam phải đối mặt trong phát triển kinh tế bằng 3 chữ: “Vốn, vốn và vốn". Các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam cũng có chung quan điểm, họ cho
rằng trở ngại lớn nhất đó là vấn đề: "Tín dụng, tín dụng và tín dụng". Việc tiếp cận
nguồn tín dụng ngân hàng là rất khó khăn đối với khu vực kinh tế NQD, đặc biệt là
Trang 6
nguồn tín dụng trung dài hạn. Nguyên nhân chính là do các thể chế chính sách liên
quan đến vấn đề vốn như: chính sách đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất hoặc
tài sản để vay vốn chưa được hoàn chỉnh. Có thể nói vốn đang là vấn đề khó khăn
nhất đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD trong việc phát
triển hơn nữa.
- Đặc điểm về trình độ, công nghệ sản xuất.
Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp kéo theo trình độ kỹ thuật
công nghệ của kinh tế ngoài quốc doanh còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ thuật công
nghệ sử dụng nhiều lao động. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu kinh tế
Trung ương năm 2003 thì chỉ có 36% doanh nghiệp và 28% số công ty sử dụng
công nghệ tương đối hiện đại, 42,5% doanh nghiệp và 31,2% công ty sử dụng công
nghệ cổ truyền, 27,5% doanh nghiệp và 40,8% công ty kết hợp cả công nghệ hiện
đại và cổ truyền. Công nghệ lạc hậu là một trong những nguyên nhân chính làm cho
các sản phẩm kém sức cạnh tranh và thị phần hàng hoá bị giới hạn trong khuôn khổ
chật hẹp. Tuy nhiên đây cũng là đặc điểm chung của các doanh nghiệp nước ta, kể
cả doanh nghiệp Nhà nước phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế còn kém phát
triển,thiếu năng động,mang nặng tính thuần nông của nước ta.
-Đặc điểm về trình độ quản lý, kinh doanh, kỹ năng người lao động.
Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài quốc
doanh có từ nhiều nguồn khác nhau: nông dân, thợ thủ công, tầng lớp trí thức. Hơn
nữa, kinh tế nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường nên những kiến thức về
kinh tế, những hiểu biết về quy luật kinh doanh không phải ai cũng có thể nắm bắt
được. Điều này trước hết gây khó khăn trong việc điều hành doanh nghiệp cho
chính những người làm chủ. Họ gặp nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác tổ
chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án, các cơ hội
đầu tư.Bên cạnh đó,đội ngũ người lao động phần lớn xuất thân từ dân nghèo, nông
thôn, trình độ học vấn còn nhều hạn chế nên kĩ năng cũng như kỉ luật lao động còn
thấp,chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho công việc.
Việc thực hiện Pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước trong các
doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần lớn, các doanh nghiệp
hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm bản thân. Do đó, họ gặp nhiều khó
Trang 7
khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vì không chứng thực được năng lực kinh
doanh cũng như tình hình tài chính của bản thân một cách rõ ràng.
-Đặc điểm về môi trường kinh doanh.
Các chính sách chế độ của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ,
chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu tư vốn
vào sản xuất kinh doanh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn kiện của Đảng
các chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đã nêu rõ và công nhận vai trò quan
trọng của kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ chế thị trường nhưng việc cụ thể hoá
thành quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành để tạo môi trường thuận lợi đối với
kinh tế ngoài quốc doanh đến nay vẫn còn nhiều hạn chế.
Tính ổn định của chính sách kinh tế- tài chính còn thấp, thiếu tính kích
thích mà chủ yếu là chính sách thuế và pháp luật còn nặng tính ràng buộc về nguyên
tắc, chế độ.
Chính sách thuế còn nhiều ưu đãi, chiếu cố cho thành phần kinh tế Nhà
nước, chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các
thành phần kinh tế. Tình trạng còn nhiều đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh phải ngụy
trang núp bóng dưới danh nghĩa kinh tế Nhà nước hòng mong thu được lợi nhuận
cao là bằng chứng rõ ràng về sự bất bình đẳng trong cư xử ,thể hiện ở việc ưu đãi
quá mức đối với kinh tế Nhà nước.
Các chính sách Nhà nước chưa thực sự khuyến khích kinh tế ngoài quốc
doanh tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ
khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ quyền lợi chính đáng của người lao
động trong các doanh nghiệp tư nhân về các chế độ người lao động BHXH, BHYT
trong thời gian làm việc, khi về già.
Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nhũng nhiễu.Tình trạng quan liêu,
cửa quyền trong quản lý kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói
riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ đối với sản xuất kinnh doanh.Mặt khác,
môi trường sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn do sức
cạnh tranh còn kém.
Tóm lại, các đặc điểm nói chung và môi trường kinh doanh của thành phần
kinh tế này nói riêng còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản
Trang 8
xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này.Do đó, cần có sự quan tâm đúng mực
của các ngành các cấp và đặc biệt là của ngành ngân hàng tạo để điều kiện cho họ
trong việc tiếp cận vốn ngân hàng phục vụ nhu cầu chính đáng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
1.1.3.Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở
Việt nam.
Trong xu thế mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần được thừa nhận và tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế ngoài quốc
doanh đã và đang chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế nước
ta hiện nay.Điều này được thể hiện ở:
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện khai
thác tối đa nguồn lực của đất nước.
Trải qua 15 năm đổi mới, mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng trình độ
nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp trong khi tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn
rất lớn, kinh tế Nhà nước không thể khai thác và tận dụng hết được những tiềm năng
này. Vì vậy cần phải phát triển kinh tế ngoài quốc doanh mới có thể khai thác tốt các
nguồn lực của đất nước. Việc khuyến khích thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
phát triển sẽ huy động được một lượng vốn lớn đang nằm trong dân, tạo điều kiện
cho năng lực con người được giải phóng và phát huy mạnh mẽ. Mọi cá nhân, tổ
chức đều cố gắng phát huy tối đa khả năng của mình, tìm kiếm, khai thác các nguồn
lực vì lợi ích của chính bản thân. Đó là động lực kích thích sự phát triển của lực
lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển.
1.1.3.2. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động,
góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao động
đông đảo, kinh tế Nhà nước không thể tạo ra đầy đủ công ăn việc làm cho tất cả.
Hơn nữa trải qua một giai đoạn nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp
đã bộc lộ rõ những mặt non kém của công tác quản lý và sử dụng lao động cho nên
với chủ trương giảm biên chế, kinh tế ngoài quốc doanh là đối trọng để thu hút lao
động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan Nhà nước và hành chính sự nghiệp. Bên cạnh đó,
do tính đa dạng trong loại hình của kinh tế ngoài quốc doanh, nó có mặt trong tất cả
Trang 9
mọi nghành nghề lĩnh vực, có mặt ở cả nông thôn và thành thị, có thể dễ dàng thành
lập bởi một cá nhân, một gia đình, hay một số cổ đông liên kết lại dưới dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần
tương đối nhiều lao động. Do vậy, kinh tế ngoài quốc doanh là nơi tạo việc làm
nhanh nhất, dễ dàng hơn so với kinh tế Nhà nước.
1.1.3.3. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh ngày
càng phát triển nhanh chóng, đóng góp ngày càng lớn vào tỷ trọng GDP của
quốc gia .
Mặc dù còn lép vế hơn so với kinh tế Nhà nước song sự đóng góp vào GDP
của kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã chứng tỏ được vai trò cần
thiết của thành phần kinh tế này đối với sự phát triển của đất nước.Điều này được
thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước phân theo ngành kinh tế
Đơnvị:tỷđồng
Thành phần kinh tế Năm2002 % Năm2003 % Năm2004 %
1. Kinh tế Nhà nước
2.Kinh tế ngoài quốc
doanh
124732
231645
35
65
132624
281826
32
68
137652
353962
28
72
Tổng số 356377 100 414450 100 491614 100
Nguồn:Niên giám thống kê 2004
Như vậy tỷ trọng GDP kinh tế ngoài quốc doanh tăng dần qua các năm: 65%
năm 2002, 68% năm 2003 và 72% năm 2004, hoạt động của kinh tế ngoài quốc
doanh đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ,khác
với kinh tế Nhà nước, thành phần kinh này phải tự thân vận dộng để vươn lên mà
không hề có một sự ưu đãi nào từ phía Nhà nước, do đó, họ đã cố gắng phát huy
mọi nhân tài vật lực nhằm khẳng định vị trí của mình trên thị trường.Trong mấy
năm qua, sự phát triển mạnh mẽ loại hình kinh tế này đã góp phần làm tăng GDP,
tăng ngân sách Nhà nước, qua đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện cho
lực lượng sản xuất phát triển.
Trang 10
1.1.3.4 Kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh, góp phần tạo ra sự
phát triển sôi động của nền kinh tế.
Từ những thực tế cho ta thấy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã làm
tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Bởi vì, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển trên
nhiều lĩnh vực, ngành nghề làm cho thị trường hàng hoá trở nên phong phú, đa
dạng, sôi động, tạo ra sự thu hút. Trước sự tồn tại và phát triển của kinh tế ngoài
quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải phân tích, hoạch định chiến lược
kinh doanh cho phù hợp hơn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Điều
này càng khẳng định rằng việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh không những
không làm suy yếu kinh tế Nhà nước mà còn thúc đẩy thành phần này phát triển
mạnh mẽ hơn. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế
Nhà nước phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà kinh tế
quốc doanh không đảm nhận hết.
Kinh tế ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt vừa là đối tác
làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm,
cung cấp đầu vào cho kinh tế Nhà nước. Sự kết hợp sản xuất- tiêu thụ giữa kinh tế
Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất mới của xã
hội, giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra được
hoàn thiện với chất lượng ngày càng tốt hơn.
Như vậy, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và tăng
cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành
phần kinh tế buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể nói riêng phải
luôn đổi mới hoàn thiện để tồn tại và phát triển. Kinh tế ngoài quốc doanh còn là
môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong nền kinh tế
mở cửa hiện nay, giao lưu kinh tế giữa các nước phát triển mạnh, nếu không có một
chính sách đúng đắn thì chúng ta sẽ không thể khai thác hết được tiềm năng của
thành phần kinh tế này.
1.1.3.5 Sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần vào quá trình Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra mục tiêu đến năm
2010, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Bên cạnh đó cũng đặt ra mục tiêu
Trang 11
đến năm 2005 có khoảng 60% doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần hoá. Như vậy với
vai trò của mình, trong những năm tới kinh tế ngoài quốc doanh sẽ được mở rộng và
là nơi tập trung vốn, nhân lực vào các ngành kinh tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri
thức như công nghệ thông tin, điện tử cũng như có thể lấp đầy những khoảng
trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn, có mức lợi
nhuận không cao mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm tới. Đây cũng là quan điểm của
Đảng ta trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế ngoài
quốc doanh.
1.2.1 Khái niệm Tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng
hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn.
Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu
theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa trên những nguyên tắc:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định.
Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá,
máy móc, thiết bị, bất động sản
- Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi
hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay nói cách khác
người đi vay phải trả thêm phần lãi vay.
Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá
quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức: tín dụng Nhà
nước, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển quyền sử
dụng tạm thời một lượng vốn giữa Ngân hàng với khách hàng trong một thời
gian nhất định và sau thời gian đó lượng vốn được hoàn trả cộng thêm phần lãi
trên lượng vốn theo một lãi suất nhất định.
Tín dụng Ngân hàng được biểu hiện qua các quan hệ sau: quan hệ tín dụng
Ngân hàng với kinh tế Nhà nước, giữa Ngân hàng với kinh tế NQD, với các cá
nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế, Ngân hàng
Trang 12
đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng với
các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng đồng thời vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh
nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động trong
xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp và các cá nhân. Khác với tín dụng thương mại được cung cấp dưới
hình thức hàng hóa, còn tín dụng Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ
bao gồm tiền mặt và bút tệ - chủ yếu là bút tệ.
1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau tùy theo
yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng, sau đây là một số cách
phân loại phổ biến hiện nay:
Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, tín
dụng ngắn hạn bao gồm các loại: cho vay bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ; chiết khấu chứng từ có giá; cho vay đáp
ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống với hộ tư nhân, cá
thể.
+ Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 60
tháng. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án có quy mô vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này
chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn như: xây dựng nhà ở, các
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, đầu tư xây dựng các nhà máy,
xí nghiệp.
Căn cứ vào mục đích sử dụng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các chủ
thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá tiêu
Trang 13
dùng Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc
dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
Căn cứ vào sự bảo đảm cho vay, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có tài sản
cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo cho khả năng hoàn trả
của khoản vay. Việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay hoặc bảo lãnh bằng uy
tín của một bên thứ ba là các doanh nghiệp hay các tổ chức đoàn thể chính trị - xã
hội.
+ Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi Ngân hàng cấp tín dụng đòi
hỏi người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba (có thể
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo lãnh của tổ chức tín dụng khác) để
đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay. Đây là loại tín dụng được tất cả các Ngân hàng
áp dụng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt là khoản vay lớn, các
khoản đầu tư trung, dài hạn.
Căn cứ vào đối tượng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu động
cho các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như
mua nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ, chi cho các chi phí sản xuất, cho vay để thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để bù đắp
mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Thời gian cho vay vốn ngắn hạn thường dưới
12 tháng.
+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố định.
Loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời
hạn cho vay đối với loại tín dụng này trên 12 tháng.
Căn cứ vào hình thức ,tín dụng bao gồm:
+Chiết khấu:Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với
giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương
phiếu chưa đên hạn(hoặc một giấy nợ).Đay chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét