mở rộng thị trường, đa dạng hoá các loại sản phẩm, tăng quy mô sản xuất,
tăng thị phần và sự ảnh hưởng của doanh nghiệp trên thị trường…do đó có thể
giảm thiểu được các rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh. Ngoài ra, doanh
nghiệp cần phải tăng cường xuất khẩu để thu lợi nhuận, tăng số vòng quay
của vốn, tăng lượng thu ngoại tệ tù đó giúp doanh nghiệp có điều kiện đầu tư
cho sản xuất và xuất khẩu, nhập về các máy móc, công nghệ hiện đại để nâng
cao hiệu quả sản xuất, thúc đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.4.1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập cần phải tăng cường xuất khẩu
Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá và liên kết giữa các khu vực, các quốc
gia với nhau đang diễn ra mạnh mẽ, hội nhập và tự do hoá thương mại đang
trở thành trào lưu lôi cuốn nhiều nước tham gia. Trong xu thế đó, Việt Nam
cũng đang tích cực tham gia, nhưng những đóng góp của Việt Nam trên thị
trường quốc tế còn nhỏ, vì vậy, xuất khẩu là việc làm cần thiết để nâng cao vị
thế của ta trên thị trường quốc tế. Toàn cầu hoá và hội nhập cho phép các
doanh nghiệp được hưởng các chế độ, chính sách ưu đãi của các nước dành
cho Việt Nam khi gia nhập WTO, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thâm
nhập thị trường bên ngoài dễ dàng hơn.
Mặt khác, toàn cầu hoá và hội nhập còn giúp cho các doanh nghiệp có
nhiều cơ hội kinh doanh hơn, mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài,
học tập phong cách quản lý, tiếp thu tiến bộ khoa học và công nghệ quản lý
kinh doanh, xoá bỏ tu duy cũ, tích luỹ nhiều kinh nghiệm qua đó giúp doanh
nghiệp hình thành được tác phong kinh doanh hiện đại. Vì vậy, khi thực hiện
xuất khẩu, các doanh nghiệp cần phải tận dụng triệt để các điều kiện thuận lợi
mà toàn cầu hoá và hội nhập đem lại từ đó không ngừng phát triển đi lên, góp
phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế.
5
1.4.1.3. Việt Nam có nhiều tiềm năng trong sản xuất và xuất khẩu hàng
nông sản
Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên đối với sản xuất và
xuất khẩu hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng rất lớn, thể hiện ở:
Về đất đai: tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta khoảng 10-12 triệu
ha, trong đó gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm và 4 triệu ha cây trồng lâu
năm, diện tích đất trồng lúa chiếm phấn lớn, khoảng 5.5 triệu ha. Hiện nay
Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp, còn lại là đồng cỏ tự
nhiên và mặt nước.
Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, nhiều chất dinh
dưỡng cung cấp cho cây trồng, nhất là phù xa, đất xám, chủng loại đất cũng
rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với
nguồn nhiệt ẩm dồi dào sẽ là điều kiện tốt để phát triển các loại cây trồng,
thâm canh tăng vụ nếu chúng ta biết khai thác một cách có khoa học và hợp
lý.
Về khí hậu: khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng
khá sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng,
phân biệt rõ ràng từ bắc xuống nam, với mùa đông lạnh ở miền bắc và khí hậu
kiểu Nam Á, ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng
nông nghiệp nhất là cây trồng nông sản. Không những vậy, Việt Nam còn có
tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá dồi dào, phân bố đồng đều trong nước, với độ
ẩm trong năm thường cao hơn 80%, lượng mưa lớn (trung bình từ
1800-2000mm/năm)…đây là điều kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát
triển của các loại động thực vật, nhất là đối với một số loại cây trồng như: lúa,
cà phê, điều, cao su, chè…
6
Về nhân lực: với dân số hơn 85 triệu người, cơ cấu dân số trẻ và chủ yếu
dân số sống bằng nông nghiệp, có thể thấy Việt Nam có một lực lượng lao
động dồi dào, nhất là lao động phục vụ cho nông nghiệp. Bên cạnh đó, lao
động Việt Nam có tính cần cù, sáng tạo, có khả năng nắm bắt khoa học công
nghệ nhanh chóng, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Đây là
những điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trở thành một nước có nền sản xuất
nông nghiệp tiên tiến, hiện đại…cung cấp khối lượng lớn các sản phẩm của
ngành nông nghiệp nhất là nông sản cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Về các chính sách của nhà nước: ngoài những yếu tố thuận lợi trên, với
quan điểm của Đảng và Nhà nước, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
chính vì vậy việc sản xuất, chế biến và xuất khẩu hàng nông sản cũng rất
được chú trọng. Nhà nước ưu tiên đầu tư trong nước và nước ngoài cho sản
xuất nông nghiệp nhất là đối với cây trồng lâu năm như: cà phê, cao su…
Với những tiềm năng to lớn như vậy, triển vọng sản xuất và xuất khẩu
hàng nông sản Việt Nam hiện nay và trong tương lai có nhiều triển vọng.
Việc tăng cường xuất khẩu hàng nông sản sẽ giúp khai thác có hiệu quả
các tiềm lực sẵn có, tạo công ăn việc làm cho ngưởi lao động, tăng thu nhập
cho người dân góp phần xoá đói, giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã
hội.
1.4.1.4. Nhu cầu về hàng nông sản trên thế giới có su hướng tăng
Theo đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hiệp
Quốc (FAO), từ nay đến năm 2010 nhu cầu về hàng nông sản trên thế giới và
Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng.
Trước hết, do thời tiết ngày càng xấu, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều
khó khăn do rét đậm, rét hại kéo dài, ảnh hưởng đến cây công nghiệp và cây
lương thực…Như ở Việt Nam, thời tiết xấu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
7
tiến độ gieo cấy lúa đông xuân ở phía Bắc và duy trì phát triển đàn gia súc…
nhất là vào cuối năm 2007 và những tháng đầu năm 2008. Theo báo cáo của
các địa phương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến
18/2/2008, toàn miền Bắc có trên 146 nghìn ha lúa bị ảnh hưởng nặng, trong
đó có 10 nghìn ha phải gieo trồng lại. Tổng số các loại vật nuôi đã bị chết là
63 nghìn con, trong đó bê, nghé non chiếm 75%; bò, trâu già chiếm 25%. Ước
tổng thiệt hại khoảng 400 tỷ đồng.
Thứ hai, do dân số thế giới đang tăng trưởng với tốc độ rất nhanh. Theo
ước tính năm 2006 của Cục dân số Liên Hiệp Quốc, dân số thế giới sẽ tăng
thêm 2.5 tỷ người trong 43 năm tới, từ mức 6.7 tỷ người hiện nay tới 9.2 tỷ
người vào năm 2050 với sự gia tăng đó chủ yếu diễn ra tại các nước đang phát
triển. Dân số ở các nước ít phát triển sẽ tăng từ 5.4 tỷ người trong năm 2007
lên 7.9 tỷ trong năm 2050. Dân số của các nước nghèo như Afghanistan,
Burundi, Congo, Guinea - Bissau, Liberia, Niger, Đông Timor và Uganda dự
đoán sẽ tăng ít nhất 3 lần vào giữa thế kỷ này. Trong khi dân số thế giới ngày
cáng tăng thì diện tích đất đai sử dụng cho nông nghiệp ngày càng giảm cùng
với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa. Diện tích đất nông nghiệp giảm
sẽ làm cho sản lượng các mặt hàng nông nghiệp cũng giảm theo, trong khi
nhu cầu về lương thực, thực phẩm ngày càng tăng.
Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong nước và thế giới
làm cho nhu cầu tiêu dùng của người dân trong và ngoài nước tăng nên các
mặt hàng nông sản sẽ được tiêu thụ với khối lượng lớn như: gạo, đường, cà
phê, điều, chè, hạt tiêu…Cụ thể như sau:
Tổng mức tiêu dùng gạo thế giới năm 2007/08 dự báo sẽ đạt 423.93 triệu
tấn, điều chỉnh giảm 300 ngàn tấn so với dự báo hồi tháng 11/2007, song tăng
5.08 triệu tấn so với mức tiêu dùng năm 2006/07, và sẽ là năm thứ 2 liên tiếp
8
có mức tiêu dùng cao hơn sản lượng. Trong đó, mức tiêu dùng của một số
nước dự báo sẽ đạt (đơn vị: triệu tấn): Bănglađét 29.80; Braxin 0.90:
Myanmar 10.70; Cămpuchia 3.78; Trung Quốc 129.10; Ai Cập 3.67; Ấn Độ
88.80; Inđônêxia 36.15; Iran 3.15; Nhật Bản 8.15; Hàn Quốc 4.75; Nigêria
4.70; Philippin: 12.06; Thái Lan 9.60; Việt Nam 18.72; Mỹ 3.99.
Tổng sản lượng gạo toàn cầu năm 2007/08 dự báo đạt 420.48 triệu tấn,
điều chỉnh giảm 680 ngàn tấn so với dự báo hồi tháng 11/2007, song tăng
2.83 triệu tấn so với sản lượng năm 2006/07. Trong đó, sản lượng (đơn vị:
triệu tấn) của Bănglađét sẽ đạt 28.50; Braxin 7.99; Myanmar 10.66;
Cămpuchia 4.80; Trung Quốc 129.50; Ai Cập 4.41; Ấn Độ 92.00; Inđônêxia
34.00; Nhật Bản 7.94; Hàn Quốc 4.50; Nigêria 3.00; Pakixtan 5.40; Philippin
10.01; Thái Lan 18.40; Việt Nam 23.26; Mỹ 6.33.
Tổng dự trữ gạo thế giới cuối niên vụ 2007/08 dự báo đạt 72.17 triệu
tấn, giảm so với 75.63 triệu tấn của cuối niên vụ 2006/07.
Tổng sản lượng đường thế giới năm 2007/08 theo dự báo của Bộ Nông
nghiệp Mỹ sẽ đạt 167.1 triệu tấn (qui đường thô), tăng 3.1 triệu tấn so với
năm 2006/07. Trong đó, sản lượng của Braxin sẽ đạt 32.1 triệu tấn, tăng 650
ngàn tấn; Ấn Độ 31.8 triệu tấn, tăng 1.1 triệu tấn; Trung Quốc 13.9 triệu tấn,
tăng 1 triệu tấn; và Thái Lan 7.2 triệu tấn, tăng 480 ngàn tấn. Sản lượng của
EU - 27 dự báo sẽ chỉ tăng 40 ngàn tấn, đạt 17.49 triệu tấn.
Tổng mức tiêu dùng đường toàn cầu dự báo sẽ đạt 155 triệu tấn, tăng 5.6
triệu tấn so với năm 2006/07.
Tổng xuất khẩu đường trên thế giới năm 2007/08 dự báo đạt 50.8 triệu
tấn, tăng 1 triệu tấn so với năm 2006/07. Trong đó, xuất khẩu của Braxin sẽ
đạt 20.6 triệu tấn, giảm 250 ngàn tấn so với năm 2005/06 do giá tương đối
thấp so với chi phí sản xuất, phí vận chuyển cao, cạnh tranh của Ấn Độ tại thị
9
trường Cận Đông và nhu cầu sản xuất nhiên liệu sinh học (ethanol) ở trong
nước cao. Xuất khẩu của Thái Lan sẽ đạt 5.3 triệu tấn, tăng 200 ngàn tấn; và
xuất khẩu của Ấn Độ sẽ đạt 3 triệu tấn, tăng 1.2 triệu tấn so với năm 2006/07.
Trong khi đó, xuất khẩu đường của Ôxtrâylia sẽ giảm 200 ngàn tấn trong năm
2007/08 đạt 3.7 triệu tấn.
Tổng dự trữ đường thế giới cuối niên vụ 2007/08 dự báo đạt 46.6 triệu
tấn, tăng 5.1 triệu tấn so với cuối niên vụ 2006/07
Thứ tư, tình hình thế giới có nhiều biến động về chính trị,xã hội. Tình
hình xung đột vũ trang đang gia tăng ở nhiều nước, nhiều khu vực vẫn còn
tình trạng đấu tranh quyết liệt nhất là khu vục Trung Đông, nạn đói ở Châu
Phi vẫn đang hoành hành, do đó cần phải có một khối lượng lớn lương thực,
thực phẩm để dự trữ và viện trợ cho những nước này. Đây chính là nguồn nhu
cầu lớn đối với các nước xuất khẩu nông sản.
1.4.2. Vai trò của xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
1.4.2.1. Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước (GDP)
Xuất khẩu các loại hàng hóa nói chung, xuất khẩu hàng nông sản nói
riêng và sự tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xuất khẩu
đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho sự tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế thể hiện ở chổ nó chiếm phần lớn trong tổng sản phẩm quốc nội
(GDP), thu hút được nhiều ngoại tệ về cho đất nước. Xuất khẩu có vai trò rất
lớn trong tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Theo kinh tế học thì: GDP = C+I+G+(X-N)
Trong đó: C là chi tiêu của các hộ gia đình
I là đầu tư của các doanh nghiệp
G là chi tiêu của chính phủ
10
X là xuất khẩu
N là nhập khẩu
Khi mà hiệu số (X-N) tăng cao tức X tăng mạnh thì tổng sản phẩm trong
nước (GDP) tăng cao và ngược lại.
Nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam,
có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu hàng nông sản
càng lớn thì càng làm cho GDP tăng cao, thể hiện được năng lực cạnh tranh
của đất nước về xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng cao sẽ
nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Theo báo cáo của chính phủ, giai đoạn 2002-2007 tất cả các nhiệm vụ
phát triển kinh tế đều được hoàn thành vượt mức đề ra, điểm nổi bật trong 5
năm qua là tăng trưởng kinh tế găn kết chặt chẽ với ổn định kinh tế. Tốc độ
tăng GDP bình quân trong thời kỳ 2002 - 2007 là 7.8%, cả 3 lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ đều đạt mức tăng trưởng cao, liên
tục với tốc độ khá ổn định. Khu vực nông nghiệp tăng trưởng cao, liên tục và
đạt mức bình quân 5.4%/năm; sanư xuất công nghiệp tăng khoảng
16.5%/năm; giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ bình quân 7.4%/năm
1.4.2.2. Đối với tăng trưởng nông nghiệp
Chúng ta đều biết, Việt Nam là một nước nông nghiệp, vấn đề sản xuất
và xuất khẩu hàng nông sản giữ vị trí quan trọng đối với tăng trưởng nông
nghiệp nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung. Trong những năm gần đây,
Việt Nam đã nổi lên là một nước xuất khẩu nông sản mạnh so với khu vực và
thế giới, có những mặt hàng Việt Nam còn được coi là đại gia như cà phê,
gạo, hạt điều… Tuy nhiên, mức độ tác động của xuất khẩu nông sản đối với
tăng trưởng nông nghiệp còn bấp bênh, chưa tương xứng với tiềm năng vốn
có của nó.
11
Sản phẩm của nông nghiệp bao gồm nông sản, thủy sản và lâm sản,
trong đó nông sản chiếm tỷ trọng lớn nhất. Vì vậy ta xem xét vai trò của xuất
khẩu hàng nông sản đối với tăng trưởng nông nghiệp qua các vấn đề sau :
Một là, xuất khẩu hàng nông sản tác động đến việc mở rộng quy mô sản
xuất nông nghiệp.
Khi xuất khẩu nông sản tăng, khối lượng nông sản được sản xuất ra ngày
càng lớn, do đó sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất nông
nghiệp. Mặt khác, khi xuất khẩu nông sản tăng còn tạo nguồn thu lớn cho
người sản xuất, từ đó họ có thể tăng vốn để tái sản xuất mở rộng, tăng năng
xuất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu.
Hai là, xuất khẩu góp phần giải quyết tốt vấn đề công ăn, việc làm.
Một trong những đặc điểm rất quan trọng của Việt Nam và một số nước
đang phát triển khác là tốc độ tăng lực lượng lao động nhanh, từ đó việc làm
luôn là vấn đề nóng và cần quan tâm của nền kinh tế. Để giải quyết được
tình trạng này phải tăng cầu lao động và xuất khẩu tăng cũng là một trong
những biện pháp để mở rộng quy mô ngành sản xuất nông sản, từ đó tạo thêm
việc làm cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu nông sản tăng kéo theo sự
phát triển của ngành công nghịêp chế biến, công nghịêp phục vụ nông nghịêp,
từ đó lao động bổ sung tăng lên.
Khi người lao động có việc làm, thu nhập ổn định sẽ tạo tâm lý yên tâm
phấn khởi và người lao động (đặc biệt là lao động nông nghịêp) sẽ làm việc
ngay tại quê hương mình, giảm tải tình trạng di cư của lao động ra các khu
công nghiệp, thành thị để kiếm việc làm.
Ba là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực trong nông nghiệp.
12
Nguồn lực trong nông nghịêp bao gồm: đất đai, cơ sở hạ tầng, người lao
động, kinh nghiệm sản xuất…Mỗi quốc gia đều có những cách thức khác
nhau trong việc sử dụng các nguồn lực của mình sao cho có hiệu quả nhất và
tận dụng hết các lợi thế của vùng. Mỗi vùng khác nhau sẽ có lợi thế về một
loại nông sản khác nhau, do đó khi xuất khẩu nông sản tăng lên, thị trường
được mở rộng sẽ tạo điều kiện cho vùng đó sử dụng nguồn lực đạt hiệu quả
cao nhất. Đây cũng là lý do tại sao Việt Nam lại tạo những điều kiện thuận lợi
để đẩy mạnh xuất khẩu gạo của đồng bằng sông Cửu Long, cà phê của các
tĩnh miền Trung Tây Nguyên, vải Lục Ngạn, nhãn Hưng Yên, thanh long
Binh Thuận, bưởi Diễn…
Bốn là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn gắn với
công nghiệp chế biến và thị trường, đua thiết bị và các công nghệ hiện đại
vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy
lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ sinh học và công nghệ
thông tin nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm nông
nghiệp trên thị trường. Vì vậy, xuất khẩu nông sản tạo điều kiện giải quyết tốt
vấn đề đầu ra cho nông sản, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo
hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, điều này rất phù hợp với hội nhập kinh
tế hiện nay. Mặt khác, xuất khẩu nông sản còn có vai trò tích cực trong việc
cung cấp thông tin cho người sản xuất, tạo ra sự phù hợp tốt hơn giữa người
sản xuất và thị trường.
Năm là, xuất khẩu hàng nông sản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp.
13
Xuất khẩu nông sản tăng làm đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm, từ đó góp phần thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa có giá
trị cao, đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của thị trường thế giới. Xuất khẩu nông sản tăng hình thành càng
vùng sản xuất chuyên môn hóa, tạo thuận lợi cho việc chăm sóc, áp dụng tiến
bộ kỹ thuật và xóa bỏ dần cách thức sản xuất manh mún, nhỏ lẽ trước đây.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy rằng, về mặt lý thuyết xuất khẩu nông
sản và tăng trưởng nông nghiệp có mối quan hệ thuận chiều, nhưng trên thực
tế các quốc gia có phát huy được mối quan hệ này hay không còn phụ thuộc
rất lớn vào tình hình cụ thể của quốc gia đó và tăng trưởng nông nghiệp
không chỉ chịu tác động của một nhân tố đó là xuất khẩu nông sản.
Thực tế, trong những năm qua ngành nông nghiệp Việt Nam đã có
những bước chuyển mình, tạo ra sự thay đổi lớn trong sản xuất, cơ cấu, chất
lượng, giá cả sản phẩm và uy tín của nông sản trên thị trường quốc tế. Chúng
ta có thể nhìn nhận sự thay đổi đó thông qua số liệu ở bảng 1.
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
nông sản (%)
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Tốc độ tăng trưởng XKNS 11.5 26.6 61.5 26.5 24.5
Tốc độ tăng trưởng NN 3.62 4.36 4.04 3.4 3.25
Nguồn: Niên giám thống kê
Từ bảng 1 có thể thấy, trong giai đoạn từ năm 2003-2006 xuất khẩu nông
sản của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đều đặn từ 11.5% năm 2003 lên
26.6% năm 2004 và 61.5% năm 2005. Sự tăng trưởng này làm cơ sở cho tăng
trưởng nông nghiệp cũng tăng đều đặn từ 3.62% năm 2003 lên 4.04% năm
2005. Riêng năm 2006 và năm 2007, kinh tế Việt Nam nói chung và nông
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét