-Đầu tư giúp DNBH nhân thọ bù đắp sự mất gía của đồng tiền, bảo toàn
quỹ tài chính trước rủi ro lạm phát, đảm bảo khả năng chi trả của doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong tương lai .
2.Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm được ví như một "cánh
tay" của doanh nghiệp bảo hiểm cùng với "cánh tay" kinh doanh trực tiếp.
Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt để đảm bảo đầu tư an toàn và hiệu
quả doanh nghiệp bảo hiểm cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau :
2.1.Nguyên tắc an toàn
Nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu và
bảo toàn nguồn vốn sử dụng.
Hoạt động đầu tư luôn đứng trước những rủi ro như :
Rủi ro về lãi suất
Rủi ro tín dụng
Rủi ro thị trường
Rủi ro tiền tệ
Rủi ro biến động giá trong đầu tư chứng khoán .
Khi tiến hành hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chú ý
đến tất cả những rủi ro trên để hoạt động đầu tư được hiệu quả hơn.
Trước những rủi ro đó việc đảm bảo an toàn vốn là rất quan trọng , nó đảm
bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm, tạo lòng tin cho khách
hàng từ đó tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Nguyên tắc này yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm phải đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình nhằm
phân tán và giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải.
Nguyên tắc an toàn được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh
mục đầu tư với những lĩnh vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp.Cụ thể như
sau :
Điều 98,Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành năm 2000 quy định doanh
nghiệp bảo hiểm được đầu tư vào những lĩnh vực sau:
Mua trái phiếu chính phủ;
Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp;
Kinh doanh bất động sản;
Góp vốn vào các doanh nghiệp khác;
Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;
Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
(trích điều 98-Luật kinh doanh bảo hiểm)
5
2.2.Nguyên tắc sinh lời:
Một trong những mục tiêu quan trọng của hoạt động đầu tư là tạo ra
lợi nhuận.Lợi nhuận cao là mục tiêu của tất cả mọi doanh nghiệp khi tham
gia kinh doanh trên thị trường. Với doanh nghiệp bảo hiểm, lợi nhuận là rất
cần thiết giúp doanh nghiệp tăng cường sức mạnh tài chính, đứng vững
trong cạnh tranh và thực hiện các chiến lược của mình. Lợi nhuận tạo ra từ
hoạt động đầu tư sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí và
mở rộng phạm vi bảo hiểm.
Tóm lại đây là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp bảo hiểm theo
đuổi . Tuy nhiên, muốn thu được tỷ suất lợi nhuận cao thì rủi ro khi đầu tư
cũng tăng theo. Vì vậy nhà quản lý đầu tư cần nghiên cứu sao cho hoạt động
đầu tư vừa đảm bảo nguyên tắc an toàn lại vừa đem lại mức lợi nhuận như
mong muốn.
2.3.Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên.
Khả năng thanh toán là khả năng mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể
sử dụng các tài sản của mình để đáp ứng các trách nhiệm thanh toán đã đến
hạn. Do các khiếu nại của các DNBH rất khó dự đoán nên họ phải giữ một tỷ
lệ đầu tư nhất định vào các hạng mục đầu tư có tính thanh khoản cao để
đảm bảo thanh toán ngay khi cần thiết.
Song song với mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu đảm bảo khả năng
thanh toán.Thực tế hai mục tiêu này thường có sự đánh đổi lẫn nhau: Khi
doanh nghiệp bảo hiểm muốn tăng lợi nhuận thì phải chấp nhận tăng khả
năng rủi ro, nếu rủi ro thực tế xảy ra thì khả năng thanh toán của doanh
nghiệp sẽ bị đe doạ. Do đó việc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm
bảo có tính thanh khoản hợp lý vì doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải thanh
toán cho khách hàng bất kỳ lúc nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Tất cả các nguyên tắc đầu tư cần được áp dụng một cách linh hoạt
tuỳ thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào.
Đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm từ các nguồn vốn nợ (như các quĩ Dự
phòng nghiệp vụ ) phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt các nguyên tắc đầu tư
trên. Bởi vì đây không phải là tiền của doanh nghiệp bảo hiểm mà là khoản
nợ của doanh nghiệp đối với khách hàng.
Các nguyên tắc đầu tư trên đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm nhân
thọ cần đa dạng hoá các hạng mục đầu tư của mình, có chiến lược đầu tư
thích hợp với quy mô của doanh nghiệp cũng như phù hợp với điều kiện thị
trường.
3.Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ :
6
3.1.Nguồn vốn điều lệ
Doanh nghiệp bảo hiểm thường phải ký một phần vốn điều lệ của
mình theo quy định của pháp luật. Ơ Việt Nam hiện nay quy định bằng 5%
vốn pháp định, phần còn lại DNBH có thể đem đi đầu tư sinh lời.
Trong DNBH nhân thọ, nguồn vốn này chưa phải là chiếm tỷ trọng lớn nhưng
có vai trò khá quan trọng. Nó là nguồn vốn tự có của doanh nghiệp nên
không chịu sự kiểm soát và quy định chặt chẽ của pháp luật, do đó DNBH
có thể đem đầu tư vào những khoản mục có tỷ suất lợi nhuận cao nhằm
phục vụ những chiến lược và mục tiêu của mình.
3.2.Quỹ dự trữ bắt buộc
Trong quá trình kinh doanh rủi ro, bản thân DNBH cũng có thể gặp
phải những rủi ro gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, từ đó có thể ảnh hưởng đến khách hàng.Vì vậy Nhà nước phải yêu
cầu DNBH phải trích lập các quỹ dự trữ bắt buộc để không những đảm bảo
khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà còn bảo vệ quyền lợi cho người
tham gia bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định các DNBH
phải trích 5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc, mức
tối đa của quỹ này là 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm.
3.3.Quỹ dự trữ tự nguyện
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các DNBH luôn phải duy trì khả
năng thanh toán của mình. Ngoài quỹ dự trữ bắt buộc, DNBH có thể thành
lập quỹ dự trữ tự nguyện. Quỹ này được lấy từ lợi nhuận sau thuế chưa
phân phối của doanh nghiệp. DNBH thành lập thêm quỹ này nhằm tăng khả
năng thanh toán của mình, thực hiện tốt các cam kết với khách hàng.
Các quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện của DNBH thường chiếm tỷ trọng
không lớn trong nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhưng cũng có vai trò
quan trọng, góp phần tăng doanh thu và đảm bảo khả năng thanh toán của
DNBH.
3.4.Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và lợi tức
để lại của doanh nghiệp.
Vào cuối mỗi năm tài chính, lợi nhuận sau thuế của DNBH được sử
dụng để chia cổ tức cho cổ đông đối với công ty cổ phần, trích lập các quỹ
như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi, phần còn lại sẽ được
bổ sung vào nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, DNBH còn có các quỹ đầu tư hình
thành từ lợi tức để lại, đảm bảo cho những cam kết có chia lãi.
3.5.Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
a, Quỹ dự phòng nghiệp vụ trong DNBH
7
Theo quy định hiện hành thì dự phòng nghiệp vụ là quỹ bắt buộc
doanh nghiệp bảo hiểm phải lập để thực hiện cam kết với khách hàng theo
hợp đồng bảo hiểm trong mọi tình huống. Ngoài ra,các quỹ dự phòng nghiệp
vụ còn đóng vai trò " van điều chỉnh " thu , chi và lợi nhuận của doanh
nghiệp, đảm bảo doanh nghiệp luôn trong tình trạng phát triển và ổn định.
Quỹ dự phòng nghiệp vụ nếu không được kiểm soát chặt chẽ, vận hành tuỳ
tiện sẽ phản tác dụng và gây hại cho doanh nghiệp.
Dự phòng nghiệp vụ có nguồn gốc từ phí thuộc sở hữu của doanh nghiệp, có
chiều hướng ngày càng tăng về quy mô do tăng trưởng về nghiệp vụ và mức
giữ lại. Sự tăng trưởng của quỹ dự phòng nghiệp và tính ổn định tương đối
của nó trở thành một tiềm năng tài chính của doanh nghiệp ,được doanh
nghiệp sử dụng vào đầu tư trong chiến lược kinh doanh tổng hợp kinh doanh
của mình .
Quỹ dự phòng nghiệp vụ của DNBH bao gồm :
Dự phòng toán học;
Dự phòng chi trả ( bồi thường);
Dự phòng đảm bảo cân đối;
Dự phòng chia lãi;
b, Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của DNBH nhân
thọ là tổng dự phòng nghiệp vụ trừ các khoản tiền bồi thường bảo hiểm
thường xuyên trong kỳ.
Luật kinh doanh bảo hiểm quy định khoản tiền bồi thường xuyên trong
kỳ đối với DNBH nhân thọ là lớn hơn hoặc bằng 5% tổng dự phòng nghiệp
vụ.
Cuối mỗi năm tài chính, DNBH trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ
từ quỹ tài chính bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và cho phần trách
nhiệm còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong năm tài chính tiếp theo, các quỹ
dự phòng nghiệp vụ thường không phải sử dụng để chi trả, bồi thường hết
ngay. DNBH có thể lấy từ tiền phí thu được trong năm để chi trả bồi thường
cho phần trách nhiệm phát sinh từ những hợp đồng ký từ những năm trước.
Do vậy DNBH sẽ có một phần quỹ dự phòng nghiệp vụ là "nhàn rỗi " có thể
đem đi đầu tư để sinh lời.
Trong các nguồn đầu tư trên thì nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng
nghiệp vụ của DNBH luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư. Đối
với DNBH nhân thọ, nguồn vốn này chiếm đến trên dưới 90%. Việc đầu tư
nguồn vốn này chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật. ở Việt Nam luật
pháp quy định như sau:
8
Mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi
tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế .
Mua cổ phiếu ,trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn
vào các doanh nghiệp khác tối đa là 50%vốn nhàn rỗi từ dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm.
Đối với việc kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua
các tổ chức tài chính tín dụng tối đa là 40% vốn nhàn rỗi từ dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
4.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ :
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ, trong đó bao gồm cả những nhân tố bên trong và
nhân tố bên ngoài.
4.1. Những nhân tố bên trong:
4.1.1. Các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Có thể nói nghĩa vụ tài chính của DNBH là nhân tố then chốt quyết
định sự lựa chọn các hình thức đầu tư của công ty bảo hiểm, đặc biệt là
nghĩa vụ đối với khách hàng( người được bảo hiểm).Nghĩa vụ này được quy
định tại các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Hình thức đầu tư của DNBH
sẽ phụ thuộc vào bản chất các nghĩa vụ của DNBH đối với khách hàng.
Nguồn vốn đem đi đầu tư của DNBH phần lớn lấy từ các quỹ dự
phòng nghiệp vụ; Do đó để đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như
đảm bảo khả năng thanh toán của công ty thì DNBH khi đầu tư không chỉ
tính đến lợi nhuận mà cón phải đảm bảo khả năng đáp ứng cao trách nhiệm
đối với người được bảo hiểm. Nếu như không có sự quản lý hoạt động đầu
tư một cách chặt chẽ, DNBH sẽ có xu hướng tìm kiếm các hình thức đầu tư
sao cho thu được lợi nhuận cao nhất trên cơ sở tài sản tài chính hiện có.
Cũng như DNBH phi nhân thọ, DNBH nhân thọ có hai nghĩa vụ tài chính chủ
yếu là :
Trách nhiệm đối với người được bảo hiểm
Trách nhiệm đối với cổ đông.
Bản chất của nghĩa vụ tài chính đối với người được bảo hiểm ở DNBH
nhân thọ có ảnh hưởng lớn đến chính sách đầu tư của doanh nghiệp, đặc
biệt là đến việc lựa chọn các tài sản được coi là đảm bảo cho nghĩa vụ đó.
9
Nhìn chung, nghĩa vụ tài chính với người tham gia bảo hiểm của DNBH nhân
thọ có thời hạn dài hơn so với DNBH phi nhân thọ, nhất là những nghiệp vụ
bảo hiểm nhân thọ có liên quan đến việc cung cấp sản phẩm tiết kiệm và
hưu trí dài hạn.
Điều này có nghĩa là giới hạn thời gian cho việc đầu tư các quỹ của người
tham gia bảo hiểm nhân thọ dài hạn hơn nhiều so với trong bảo hiểm phi
nhân thọ.Thêm nữa, các luồng tiền thu vào (inflow) từ phí bảo hiểm nhân thọ
tương đối ổn định do phí đã được tính trước và được thu định kỳ hoặc một
lần. Do đó DNBH nhân thọ không phải lo lắng quá nhiều về tính thanh khoản
của các tài sản trong danh mục đầu tư của mình.
4.1.2.Quy mô của doanh nghiệp bảo hiểm
Quy mô của doanh nghiệp bảo hiểm cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn các
hình thức đầu tư :
Các DNBH có vốn đầu tư lớn sẽ có phạm vi lựa chọn đầu tư rộng hơn,
có khả năng đầu tư vào nhiều danh mục khác nhau, đặc biệt là khi có quy
định tỷ lệ đầu tư tối thiểu với một số lĩnh vực như bất động sản, trái phiếu
chính phủ Ngược lại với những DNBH có vốn đầu tư với quy mô nhỏ hơn.
Mức độ thanh khoản của các tài sản tài chính sẽ phụ thuộc vào quy
mô đầu tư vào tài sản đó của DNBH so với quy mô của toàn thị trường.Ví dụ,
một DNBH nhỏ thì do tài sản đầu tư có gía trị nhỏ nên khi cần họ có thể bán
ngay ra thị trường mà không lo làm rối loạn thị trường, đảm bảo tính thanh
khoản để có tiền mặt chi tiêu.Trong khi đó, với một DNBH lớn, nắm giữ một
giá trị lớn cùng loại tài sản đầu tư đó , khi cần nếu bán ra thị trường có thể bị
ảnh hưởng đáng kể do khi bán hàng với số lượng lớn thường bị giảm giá.
Trong trường hợp này, tài sản đầu tư đó có thể coi là không đủ tính thanh
khoản cần thiết.
4.1.3. Chính sách phân phối lợi nhuận
Nhân tố này ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ, khi doanh nghiệp ký kết những hợp đồng bảo hiểm có cam
kết chia lãi như sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời, hỗn hợp và niên kim
-Nếu thị trường bảo hiểm địa phương có tập quán phân phối lợi nhuận
cho người tham gia bảo hiểm dươí hình thức chia lãi bằng tiền mặt hàng
năm thì DNBH sẽ chú trọng hơn vào mức thu nhập ngắn hạn từ việc đầu tư.
-Ngược lại, nếu việc phân phối lợi nhuận cho người tham gia bảo hiểm
nhân thọ được thực hiện chủ yếu dưới hình thức bổ sung vào số tiền bảo
hiểm hoặc trả thưởng vào thời điểm kết thúc hợp đồng bảo hiểm thì DNBH ít
quan tâm đến lợi nhuận đầu tư ngắn hạn và tập trung vào đầu tư dài hạn.
4.1.4.Các quan điểm đầu tư của nhà quản lý .
10
Hoạt động đầu tư chịu tác động bởi nhiều nhân tố, nhưng quyết định
đầu tư cuối cùng: đầu tư vào đâu, đầu tư dưới hình thức nào và giá trị bao
nhiêu là do người chịu trách nhiệm quản lý đầu tư quyết định trong khuôn
khổ pháp luật cho phép.
Nếu người quản lý đầu tư là những người thận trọng thì họ thiên về
lựa chọn những danh mục đầu tư có mức độ rủi ro thấp. Ngược lại nếu họ là
những người ưa mạo hiểm, họ sẽ có xu hướng lựa chọn những danh mục
đầu tư có mức độ rủi ro cao hơn nhưng tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng sẽ lớn hơn
rất nhiều.
Thực tế cho thấy rằng quan điểm quản lý đầu tư ở các thị trường bảo
hiểm khác nhau là khác nhau. Điều này có ảnh hưởng tới hội đồng quản trị
của các công ty bảo hiểm với tư cách là những người đặt ra các giới hạn
chung cho chính sách đầu tư của công ty. Do chịu cùng một sức ép , các
chính sách đầu tư nhìn chung có xu hướng tương tự nhau giữa các DNBH
hoạt động trên cùng một thị trường.
Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy các triết lý hay quan điểm đầu tư
không tách biệt với bối cảnh quy mô và tốc độ phát triển của thị trường vốn.
Các thị trường vốn có quy mô lớn thường có sự tham gia tích cực của các
công ty bảo hiểm. Các khu vực tài chính tự do và năng động hơn thường sẽ
tạo ra các tập quán quản lý đầu tư thiếu thận trọng hơn.
4.2.Những nhân tố bên ngoài :
Cũng như bất kỳ một hoạt động kinh tế nào khác , hoạt động đầu tư của
DNBH luôn chịu tác động của các nhân tố môi trường bên ngoài như môi
trường pháp lý, môi trường kinh tế -xã hội-chính trị
4.2.1. Chế độ thúê của Nhà nước .
Thuế là một nhân tố bên ngoài quan trọng có ảnh hưởng đáng kể đến
hoạt động đầu tư của DNBH, cụ thể như sau:
Nếu thuế suất áp dụng đối với thu nhập từ đầu tư khác với thúê suất
áp dụng đối với thu nhập từ lãi vốn thì điêù đó sẽ làm ảnh hưởng tới việc
lựa chọn hình thức đầu tư.
Nếu thu nhập từ lãi vốn đầu tư không bị đánh thúê thì điều này có thể
làm thay đổi tính hấp dẫn của các tài sản tài chính khác nhau.
DNBH sẽ tăng giá trị đầu tư vào những lĩnh vực được Nhà nước khuyến
khích thông qua việc giảm thuế .
Nhà nước khuyến khích đầu tư cho nền kinh tế bằng chính sách ưu đãi
không không đánh thuế đối với lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp nếu lợi
nhuận đó được đem tái đầu tư. Khi đó các DNBH sẽ có xu hướng để lại
11
nhiều lợi nhuận sau thuế bổ sung vào vốn điều lệ, tăng nguồn vốn đầu tư
cho doanh nghiệp.
4.2.2.Các điều kiện của thị trường vốn.
Quy mô của các thị trường vốn và thị trường tài chính trong nước có
tác động quan trọng tới sự lựa chọn các hình thức đầu tư. Các thị trường
vốn được tổ chức tốt có thể cung cấp một phạm vi rộng rãi các tài sản tài
chính sẵn có và điều này được thể hiện trong danh mục đầu tư của các
công ty bảo hiểm. Nếu thị trường vốn phát triển không đầy đủ , sự lựa chọn
hình thức đầu tư sẽ bị hạn chế( Điều này thể hiện rất rõ ở thị trường Việt
Nam trong những năm qua: Từ năm 2000, chúng ta đã có thị trường chứng
khoán nhưng quy mô vẫn còn nhỏ và hoạt động chưa hiệu quả.
4.2.3. Một số công cụ quản lý khác của Nhà nước.
DNBH không thể tự do đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của mình mà luôn
chịu sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải có những hạn chế pháp luật
đối với hoạt động đầu tư của DNBH, định hướng đầu tư , đưa ra những
danh mục đầu tư nhất định, thậm chí giới hạn mức đầu tư tối đa , tối thiểu.
Thực tế, nguồn vốn của DNBH là rất lớn và có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế nên Nhà nước cần phải quản lý hoạt động đầu tư của DNBH nhằm
mục đích:
+ Bảo vệ người tham gia bảo hiểm;
+Định hướng sự lưu chuyển của các quỹ đầu tư ;
+Giảm nguy cơ tập trung quyền lực trong lĩnh vực tài chính;
5. HìNH THứC và tổ chức hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ :
5.1.Hình thức đầu tư trong DNBH nhân thọ:
5.1.1.Cho vay có thế chấp
Đối với DNBH nhân thọ, hoạt động đầu tư thông qua cho vay có vai trò rất
quan trọng thể hiện ở những đặc điểm sau:
Tuân thủ các tiêu chuẩn tài chính
Tạo thu nhập ổn định cho DNBH
Cung cấp cho xã hội một kênh huy động vốn
Góp phần khuyến khích việc tiêu thụ các sản phẩm bảo hiểm
Với tính chất là một công cụ đầu tư, khi tiến hành cho vay, các công ty
bảo hiểm cũng phải chịu một số hạn chế nhất định như hạn chế đối với số
tiền tối đa được phép cho vay hay hạn chế về đồng tiền cho vay.
12
Hiện nay, các khoản cho vay có thế chấp của các DNBH chủ yếu đảm
bảo bằng bất động sản. Ví dụ như vào cuối những năm 90 ở Mỹ, hơn 17%
tổng giá trị các khoản đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ là đầu tư
cho vay có tài sản thế chấp bằng bất động sản, trong khi những bất động sản
do các công ty bảo hiểm này trực tiếp sở hữu chỉ chiếm 3%.
Ngoài ra, các khoản vay theo đơn bảo hiểm nhân thọ ngày càng có xu
hướng gia tăng. Đây cũng là một hình thức thu hút thêm khách hàng cho
DNBH. ở Việt Nam hiện nay, việc cho vay theo đơn bảo hiểm đang rất thịnh
hành và được các DNBH sử dụng như một hình thức cạnh tranh.
5.1.2.Đầu tư chứng khoán
Đây là một công cụ đầu tư được các DNBH sử dụng rộng rãi nhất. Tại
Mỹ vào những năm 90, giá trị đầu tư vào chứng khoán chiếm khoảng 60%
tổng giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ.Ơ Pháp, có tới 63,9%
giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm trong năm 1994 được giành để mua
trái phiếu. Ngoài ra, 17% giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ
Mỹ là các chứng khoán do Kho bạc Hoa Kỳ và các cơ quan chính phủ liên
bang phát hành. Điều này có nghĩa là thu nhập từ các hoạt động đầu tư
chứng khoán đem lại cho các công ty bảo hiểm là rất lớn.
Ngoài ra, đầu tư vào chứng khoán có tính thanh khoản cao vì DNBH có
thể nhanh chóng bán các loại chứng khoán ra thị trường nếu nhu cầu chi trả
tiền mặt là cần thiết. Chứng khoán mà các DNBH đầu tư thường là cổ phiếu
và trái phiếu .
Cổ phiếu:
Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một
hoặc một số cổ phần của công ty đó. Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường
và cổ phiếu ưu đãi . Cổ phiếu thường là một khoản đầu tư dưới hình thức cổ
phần và nó khác hẳn so với trái phiếu trong khi cổ phiếu ưu đãi lại có tính
chất của cả cổ phiếu và trái phiếu .
Khi DNBH đầu tư vào cổ phiếu, họ được hưởng các quyền đối với công ty
với tư cách là cổ đông,được sở hữu và chia cổ tức với mức độ tương đương
với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Quyền lợi mà DNBH được hưởng lúc này
tuỳ theo họ nắm giữ cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi. Ngoài phần lãi thu
được từ cổ tức còn có thể thu được lãi vốn. Đó là thu nhập mà DNBH có
được do có sự chênh lệch giữa giá thị trường hiện tại và giá mua vào của cổ
phiếu.
Trái phiếu :
Đây là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái
13
phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Công cụ nợ này có thể do Chính phủ
hoặc các doanh nghiệp phát hành. Trái phiếu công ty có độ rủi ro cao hơn
trái phiếu chính phủ nhưng lại có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đầu tư vào trái
phiếu chủ yếu chịu sự tác động của rủi ro lãi suất. Do trái phiếu có những lợi
thế nhất định như có thời gian đáo hạn dài nên tạo điều kiện cho các DNBH
nhân thọ loại trừ rủi ro lãi suất, đặc biệt là khi cạnh tranh trên các thị trường
bảo hiểm đã khiến cho những đảm bảo về lãi suất đối với những hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ thông thường và niên kim có xu hướng tăng.
Tóm lại, đầu tư vào chứng khoán có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với
các hình thức đầu tư khác. Các DNBH thường có xu hướng đầu tư giá trị lớn
vào danh mục này. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong
những năm qua,việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các DNBH ngày
một gia tăng, nhất là các DNBH phi nhân thọ. Hiện nay các DNBH nhân thọ
chủ yếu chuyển sang đầu tư vào chứng khoán và các khoản vay có mức độ
đảm bảo ít hơn nhưng có mức tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng cao hơn.
5.1.3.Đầu tư bất động sản
Hình thức đầu tư này cũng có vai trò quan trọng vì:
-Duy trì sự ổn định giá trị, việc đầu tư vào bất động sản ít chịu ảnh
hưởng bởi tác động của yếu tố lạm phát.
-Phát huy tác dụng khuếch trương, quảng cáo, nâng cao hình ảnh của
công ty.
-Cung cấp nơi làm việc thuận lợi cho khách hàng để thắt chặt thêm
mối quan hệ với họ.
Chính vì những lý do trên mà hiện nay nhiều DNBH chiếm vị trí vững
chắc trên thị trường bất động sản. Ví dụ như ở Đài Loan, công ty bảo hiểm
nhân thọ Cathay Life vào cuối những năm 90 sở hữu tới 189 tòa nhà tại Đài
Loan, trong đó công ty chỉ sử dụng 106 toà nhà, còn lại là cho thuê.
Tuy nhiên, việc đầu tư vào bất động sản có rủi ro thị trường cao và có
tính thanh khoản thấp. Do đó, các hoạt động kinh doanh bất động sản của
DNBH luôn phải chịu những hạn chế nhất định.
Những số liệu thống kê về thị trường bảo hiểm các nước OECD năm 1989
cho thấy đầu tư vào bất động sản của các công ty bảo hiểm chiếm tỷ trọng
không lớn, nhất là DNBH phi nhân thọ do yêu cầu đảm bảo khả năng thanh
toán.
5.1.4.Đầu tư khác :
Ngoài những hình thức đầu tư trên, DNBH còn có thể đầu tư dưới các
hình thức khác như: góp vốn liên doanh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng,
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét