Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
cho các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể tìm thấy chỗ đứng tại thị
trường Hoa Kỳ.
Thứ hai, tính quy chuẩn và thống nhất cao độ của sản phẩm đưa vào
thị trường Hoa Kỳ.
Hàng hoá xuất khẩu vào Hoa Kỳ đòi hỏi thực hiện nghiêm túc và chặt
chẽ, nhất là đảm bảo các yêu cầu chất lượng một cách nghiêm ngặt và đồng
bộ. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ luôn có ấn tượng và đòi h
ỏi có uy tín phải
được đặt lên hàng đầu từ khi bắt đầu có mối quan hệ hợp tác. Hàng hoá nhập
khẩu vào Hoa Kỳ thường phải có khối lượng lớn, đúng quy chuẩn, đảm bảo
đúng thời hạn, và không phương hại lợi ích kinh tế của các Công ty Hoa Kỳ.
Từ đó cho thấy chỉ nên lựa chọn và tập trung đầu tư vào một số mặt hàng và
ngành hàng xuất khẩu chủ lực, không dàn trải. (Ngay c
ả mặt hàng thủ công
mỹ nghệ cũng cần đảm bảo tính thống nhất và có khối lượng đủ lớn).
Thứ ba, tính pháp lý cao của các quan hệ thị trường.
Môi trường pháp lý của Hoa Kỳ là hết sức phức tạp, nhiều khi có sự
khác biệt giữa luật của Liên Bang, Bang và còn cả những quy định riêng biệt
của chính quyền địa phương. Hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng ở Hoa Kỳ được thực thi khá tốt vì thế hàng hoá bán ra ở
đây phải được bảo hành tốt và an toàn trong thời gian cam kết để tạo uy tín và
niềm tin. Do đó việc hiểu biết các vấn đề pháp lý liên quan là điều kiện mấu
chốt khi xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và việc sử dụng các Công ty tư vấn
nói chung trong đó có Công ty tư vấn Hoa Kỳ là điều cần chú trọng.
Thứ t
ư, tính thống nhất, ổn định cao của hệ thống phân phối.
Hệ thống phân phối hàng hoá ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao, có tổ
chức hoàn chỉnh, nếu không dựa vào các hệ thống phân phối hiện có thì
không thể đưa hàng hoá vào thị trường này (không có buôn bán tiểu ngạch
hoặc buôn bán đường biên như có thể thấy trong một số trường hợp khác).
Người dân Mỹ có thói quen mua sắm tại các siêu thị hay cửa hàng lớn. H
ệ
thống phân phối này vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn cho các doanh
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ. Nếu chưa tham gia vào
các kênh phân phối lớn thì không những không phát triển được thị trường mà
còn cản trở đến thị phần tiêu thụ và gặp những vướng mắc vào hệ thống luật
pháp của Mỹ. Muốn đi đúng kênh các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lựa
chọn được nhà phân phối có uy tín và đảm bảo được số lượng và quy cách
hàng hoá đúng vớ
i thị hiếu và yêu cầu của khách hàng Mỹ.
Thứ năm, thị trường có sức cạnh tranh rất cao.
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất thế giới, trên thị trường Hoa Kỳ có
đầy đủ các nhà cung cấp lớn nhỏ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, vì thế
mức độ cạnh tranh là vô cùng gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, giá cả và
chất lượng là hai yếu tố cơ bản, nh
ưng không thể không tính đến những yếu tố
khác như bao bì, mẫu mã, xuất xứ, nhãn hiệu sản phẩm…. Đối với doanh
nghiệp Việt Nam thì đây là những vấn đề còn mới mẻ. Theo các luật sư Mỹ,
vụ kiện cá ba sa đối Việt Nam nặng về khía cạnh chính trị và là điều khó tránh
khỏi. Đây là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp Việt Nam và sẽ còn có
nhiều vụ kiện khác có thể xảy ra n
ữa trong quá trình buôn bán với thị trường
Hoa Kỳ.
Thứ sáu, các hiệp hội kinh doanh có vai trò không nhỏ.
Ở Hoa Kỳ có rất nhiều hiệp hội của các nhà kinh doanh, các hiệp hội
này có vai trò lớn trong việc hướng dẫn và phối hợp hoạt động của các doanh
nghiệp với lợi ích cộng đồng doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, trong đó có doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó cho thấy rằng việc thiết lập quan hệ v
ới các hiệp
hội kinh doanh ở Hoa Kỳ là con đường hữu hiệu để tiếp cận và xâm nhập thị
trường Hoa Kỳ, thúc đẩy hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp hoạt động tại
Việt Nam .
Thứ bảy, lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài tại Hoa Kỳ có vai
trò quan trọng trong việc xúc tiến thương mại và đầu tư tại Hoa Kỳ.
Lực lượng ngườ
i Việt tại Hoa Kỳ rất đông lên đến 1,3 triệu người có
khả năng hòa nhập với dân cư sở tại, nhưng tính cộng đồng chưa cao. Vai trò
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
cầu nối của người Việt là hết sức quan trọng nhưng trong thực tế còn cần
được rèn luyện và thử thách. Phong cách làm việc và phương thức hợp tác
giữa họ với doanh nghiệp trong nước còn nhiều điều phải được rút kinh
nghiệm. Tiềm năng lực lượng sinh viên Việt Nam đang du học tại Hoa Kỳ
chưa được quan tâm đúng mức, tính cộng đồng Việt Nam rất yếu nên khả
năng thực hiện công tác xúc tiến và đầu tư bị hạn chế. Bởi vậy một mặt phải
thận trọng tránh vội vàng khi tiếp xúc với các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Giai
đoạn đầu cần có sự môi giới của Việt kiều. Mặt khác phải tìm và lựa chọn
được khách hàng tin cậy, thu hút nhiều doanh nghiệp có uy tín vào kinh
doanh và đầu tư ở Việt Nam.
Thứ tám, chi phí dịch vụ trong cơ cấu giá thành sản ph
ẩm chiếm tỷ
trọng cao.
Hàng hoá đưa vào bán lẻ tại Hoa Kỳ khá cao bởi chi phí dịch vụ lớn
làm hạn chế cơ hội thâm nhập của các doanh nghiệp Việt Nam khi vào thị
trường Hoa Kỳ.
Thứ chín, hệ thống tư vấn tại Hoa Kỳ giữ vai trò quan trọng đặc biệt
là tư vấn pháp luật.
Đây là đòi hỏi khách quan bởi đặc điểm của thị trường này, chi phí tư
vấn tại Hoa Kỳ rất cao. Các doanh nghiệp Việt Nam phải biết sử dụng tư vấn
của các Công ty tư vấn pháp luật Hoa Kỳ, mặt khác đòi hỏi các doanh nghiệp
Việt Nam cần phải nhanh chóng xây dựng được những Công ty tư vấn của Việt
Nam có trình độ chuyên môn ngang tầm quốc tế như các công ty Hoa Kỳ.
Việt Nam đang thực hiện một chiến lược công nghiệp hóa hướng về
xu
ất khẩu, thị trường Hoa Kỳ có tầm quan trọng đặc biệt, là điểm đến của các
sản phẩm chế tạo xuất khẩu. Với việc dành cho Việt Nam quyền xuất khẩu
sang Hoa Kỳ trên cơ sở MFN, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã
mở ra những cơ hội to lớn để phát triển hàng xuất khẩu của Việt Nam. Để có
thể tậ
n dụng được cơ hội, biến khả năng thành hiện thực, tức là có thể thực sự
thâm nhập được vào thị trường rộng lớn, phức tạp và xa xôi như Hoa Kỳ, Việt
Nam cần hoạch định một chính sách tổng thể với các giải pháp đồng bộ cả về
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
phía Nhà nước và doanh nghiệp. Thực tế cho thấy Hoa Kỳ không chỉ là thị
trường xuất khẩu lớn nhất mà còn thông thoáng nhất thế giới đối với sản
phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển. Nhập khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ từ
Châu Á là 422 tỷ USD (năm 2000), nhiều hơn 50% so với nhập khẩu EU từ
Châu Á. Năm 2000, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng
128% so vớ
i năm 2001, trong khi đó mức xuất khẩu cùng kỳ nói chung của
Việt Nam ra thị trường thế giới chỉ tăng 10%. Mức xuất khẩu các sản phẩm
chế tạo trước đây đã bị hạn chế bởi thuế suất cao của Hoa Kỳ trước Hiệp định
Thương mại, đã tăng đặc biệt nhanh với tốc độ 50% năm. Trong các sản phẩm
chế t
ạo, sản phẩm xuất khẩu tăng mạnh nhất là hàng may mặc, tăng tới 900
triệu USD trong năm 2002 (gấp 18 lần so với kim ngạch xuất khẩu trong năm
2001). Năm 2002 cũng ghi nhận sự tăng lên nhanh chóng của nhiều mặt hàng
xuất khẩu khác như đồ điện (270%), đồ gỗ (50%), hàng hoá du lịch (5422%)
và các mặt hàng công nghiệp hỗn hợp khác 847% không có gì đáng ngạc
nhiên khi Hoa Kỳ là một thị trường xuất kh
ẩu chủ yếu của các nước đang phát
triển đặc biệt là hàng công nghiệp chế tạo vì Hoa Kỳ chỉ đứng thứ hai sau EU
về quy mô (được xác định bằng GNP tổng thu nhập quốc gia). Tuy nhiên đối
với hàng xuất khẩu Châu Á, Hoa Kỳ còn lớn hơn EU. Theo bảng 1 dưới đây,
nhập khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ từ Châu Á năm 2000 là 422 tỷ USD, nhiều
hơn 50% so với nhập khẩu EU từ Châu Á
Bảng 1: Xuấ
t khẩu của Châu Á vào Hoa Kỳ và EU năm 2000
Đơn vị tính: tỷ USD
Mặt hàng
Xuất khẩu
vào Hoa Kỳ
Xuất khẩu vào
EU
Tỷ lệ
Hoa Kỳ/EU
Nông sản 13,9 14,8 0,9
Khoáng sản 6,6 7,2 0,9
Nhiên liệu 3,4 3,2 1,1
Hàng công nghiệp chế tạo 396 249,4 1,6
Sản phẩm ô tô 54,7 19,8 2,8
Thiết bị văn phòng và viễn thông 131,9 88,9 1,5
Thiết bị vận tải và máy móc khác 63,1 47,6 1,3
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
May mặc 35,8 20,8 1,7
Hàng tiêu dùng khác 59,7 33,5 1,8
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 422,7 277,6 1,5
Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Thương mại - 2001
Phần lớn hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu Á đều là hàng công
nghiệp chế tạo, tổng kim ngạch lên tới gần 400 tỷ USD trong năm 2000, nhiều
hơn 60% về giá trị so với kim ngạch nhập khẩu tương ứng của EU từ Châu Á.
Về các mặt hàng sử dụng nhiều lao động (ví dụ như hàng may mặc và hàng
công nghiệp ch
ế tạo tiêu dùng các loại), nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu Á
cao hơn nhập khẩu của EU từ Châu Á từ 70 đến 80%.
May mặc là một trong những mặt hàng chủ yếu mà các nước đang phát
triển xuất khẩu với khối lượng lớn, và đối với hầu hết các nước, Hoa Kỳ là thị
trường chủ yếu trước tiên. Với sức tiêu thụ khổng lồ, Hoa Kỳ luôn là thị
tr
ường hấp dẫn và quan trọng của ngành may mặc các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam.
Bảng 2: Nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ theo xuất xứ,
năm 2000 (triệu USD).
Quốc gia Tổng
Trung Quốc 10.536
Hồng Kông 4.816
Hàn Quốc 3.518
Đài Loan 3.065
Ấn Độ 3.056
Thái Lan 2.541
Inđônêsia 2.440
Philippine 2.316
Banglađét 2.230
Pakixtan 1.865
Xrilanca 1.708
Macao 1.168
Malaysia 895
Singapore 365
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
Việt Nam 50
Các nước kém phát triển nhất châu Á 40.518
Các nước khác 40.920
Thế giới 81.438
Nguồn: W.T.O-2001
Có thể nói rằng kinh tế Mỹ là nền kinh tế hàng đầu thế giới, đó là điều
không thể phủ nhận. Nó lớn gấp 2,5 lần so với nền kinh tế của Nhật Bản, 6
lần so với Đức và 8 lần so với Trung Quốc - Với thị trường tiêu thụ hàng hóa
rất đa dạng và phong phú - Hoa Kỳ đã trở thành "miền đất hứa" cho bất kỳ
doanh nghiệp nào cũ
ng như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới muốn xuất khẩu
hàng hoá vào Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt Nam chúng ta cũng đã trở thành bạn
hàng thương mại lớn thứ 44 của Hoa Kỳ và là nước xuất khẩu lớn thứ 38 vào
thị trường này, trong đó hàng dệt may xuất khẩu tăng rất nhanh. Dệt may là
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004
đạt 2,7 t
ỉ USD chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trường này và tăng 5,56% so với cùng kỳ năm trước. Mỹ là thị trường tiêu
thụ lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện qua bảng 4 dưới
đây:
Bảng 4: Xuất khẩu của Việt Nam.
Nước Năm 2003 Năm 2004 Tỷ trọng
Mỹ 4,5 5.5 22.4%
EU 3.4 3.4 13.8%
ASEAN 3 3.2 13.0%
Nhật 2.9 3 12.2%
Trung Quốc 1.7 1.9 7.7%
Úc 1.4 1.6 6.5%
Các nước khác 4 6 24.4%
Tổng số 20.9 24.6 100.0%
Nguồn: Báo cáo Tổng kết Bộ Thương mại - 2004
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
2. Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ.
a. Những cơ hội.
Nhìn chung, kết quả xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ là
rất khả quan và đã tác động tích cực đến phương thức sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may, đã mở ra
cho họ một tầm nhìn m
ới, một hướng đi mới, không những phát huy các thị
trường truyền thống như Nhật Bản và EU mà còn hướng tới thị trường mới
đầy tiềm năng như Hoa Kỳ bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất, Hoa Kỳ là một quốc gia đa sắc tộc, đa nền văn hóa, sự phân
hóa giàu nghèo khá rõ…. điều này tạo nên nhu cầu hết sức phong phú, nhất là
nhu cầu hàng tiêu dùng (dệt may, giày dép…) rất
đa dạng và do đó hàng hoá
của Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội chiếm lĩnh thị trường khổng lồ này, đặc
biệt là hàng dệt may một mặt hàng nhập khẩu với khối lượng lớn của Hoa Kỳ.
Các đơn đặt hàng từ Hoa Kỳ có qui mô lớn hơn nhiều so với các thị trường
khác, kể cả Châu Âu và Nhật Bản, một phần vì Hoa Kỳ có lượng dân số đông
trên 293 tri
ệu người, một phần là do đặc điểm và tính cách của người Mỹ là
"càng lớn càng tốt" khác hẳn với cung cách kinh doanh của người Châu Á
thường ban đầu mới quan hệ buôn bán họ chỉ đặt đơn hàng với khối lượng
nhỏ sau đó nếu tốt thì mới đặt với số lượng lớn. Nói như thế không có nghĩa
là người Mỹ dễ dàng trong chuyện mua bán mà họ rất chặt chẽ và khắ
t khe
trong việc soạn thảo và ký kết hợp đồng. Vì thế khi làm ăn với các doanh
nghiệp Mỹ, cần phải xem xét các hợp đồng một cách cẩn thận. Ở Mỹ, một
hợp đồng được ký kết bởi các bên liên quan sẽ có sức mạnh toàn năng, trong
khi đó một thỏa thuận miệng thì hầu như không có giá trị
Thứ hai, hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
(Bilateral Trade Agreement - BTA) được ký kết tháng 7/2000 đã góp phần
tích cực thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh.
Chỉ qua hơn 1 năm thực hiện BTA, thị trường Hoa Kỳ đã trở thành thị trường
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
xuất khẩu số một của Việt Nam . Hoa Kỳ đang nhập trên 22% hàng xuất khẩu
của Việt Nam . Hoa Kỳ vừa là thị trường xuất khẩu số 1 vừa là thị trường xuất
siêu lớn nhất của Việt Nam.Các ngành kinh tế Việt Nam đang tạo được đà
phát triển mới như may mặc, giày dép, thủy sản, đồ gỗ, hàng điện tử, thủ công
mỹ nghệ… BTA v
ừa ràng buộc, vừa làm cơ sở để Việt Nam bổ sung, điều
chỉnh và hoàn thiện toàn bộ hệ thống luật pháp của mình, làm cho hệ thống
luật pháp Việt Nam đồng bộ, thống nhất, ổn định và tương thích với hệ thống
luật pháp quốc tế hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán
hàng hoá giữa hai nước nói riêng và quốc tế nói chung dễ
dàng hơn. Hơn thế
nữa BTA sẽ tạo cho Việt Nam những bước đi trong hội nhập quốc tế vững
vàng, tự tin và hiệu quả hơn và khai thác tốt hơn khả năng của nền kinh tế
nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường, giúp Việt Nam sớm gia nhập W.T.O
. Việc áp dụng qui chế MFN (Most Favoured Nation) trong hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã thúc đẩy xuất khẩ
u của Việt Nam vào thị trường
Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng. Thuế nhập khẩu hàng hoá Việt Nam giảm bình
quân từ 40 - 70% xuống còn 3-7%, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã
tăng ngoạn mục: từ 50 triệu USD năm 2001 lên 2,5 tỷ USD năm 2003 và
2004. Ưu đãi lớn nhất của qui chế MFN là giảm và miễn thuế các sản phẩm từ
những nước chưa được hưởng qui chế MFN vào Hoa Kỳ chịu thuế xuấ
t -
nhập khẩu gần 6 đến 12 lần sản phẩm xuất khẩu của các nước được hưởng qui
chế này. Nhờ được hưởng quy chế MFN nên nhiều nước và lãnh thổ đang
phát triển ở Châu Á đã thành công trên còn đường phát triển kinh tế với tiến
độ rất nhanh, điển hình là Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan,… Việc
dành được quy chế MFN trong hiệp định BTA đã mở ra triển vọng cho Việt
Nam được hưở
ng quy chế GSP (Generalized System of Preferences) của Hoa
Kỳ .Các nước được hưởng quy chế GSP của Hoa Kỳ sẽ được phép xuất khẩu
một số sản phẩm vào thị trường Hoa Kỳ với ưu đãi thuế quan bằng O. Hiện có
hơn 100 nước được hưởng quy chế GSP của Hoa Kỳ trong đó có Thái Lan,
Malaysia, Philipine, Ấn Độ,… Và nếu Việt Nam được hưởng GSP thì hàng
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
dệt may Việt Nam sẽ có cơ hội để cạnh tranh với hàng dệt may của Trung
Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…trên thị trường Hoa Kỳ.
Thứ ba, Hoa Kỳ hiện tại là một thị trường lớn cho ngành công nghiệp
dệt may Việt Nam, đây là triển vọng khá sáng sủa bởi vì nhu cầu nhập khẩu
hàng dệt may của Hoa Kỳ rất lớn. Tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của
Hoa Kỳ vào n
ăm 2002 là 72.18 tỉ USD, vào năm 2003 là 77.43 tỉ USD… Hoa
Kỳ là nước nhập khẩu hàng hoá với khối lượng và quy mô lớn, quan điểm
trong chính sách kinh tế của họ là nhập siêu hàng hoá và xuất siêu dịch vụ. Do
vậy, Việt Nam chúng ta cần phải tích cực hơn nữa trong việc hoạch định các
chiến lược để thâm nhập và mở rộng thị trường này đặc biệt là các doanh
nghiệp dệt may - dự định biến Hoa Kỳ thành thị tr
ường xuất khẩu chính trong
tương lai.
b. Những thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may khi thâm
nhập thị trường Hoa Kỳ.
* Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam rất lớn như: Trung Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan, Ấn Độ… đây là những quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu hàng
dệt may vào thị trường Hoa Kỳ cũng như EU… kể từ ngày 1/1/2005, các
nước Trung Quốc, Ấn Độ…
được bãi bỏ hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt
may vào Hoa Kỳ. Ngoài ra các nước này còn được hưởng ưu đãi thuế quan
phổ cập GSP (Generalized System of Preferences) của Hoa Kỳ nên sức cạnh
tranh hàng dệt may của họ rất lớn, mà điển hình là Trung Quốc có số lượng
hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ cũng như Eu với một kỷ lục chưa bao
giờ có kể từ khi Trung Quốc được gia nhập vào W.T.O cách đây 3 n
ăm. Hàng
dệt may giá rẻ do Trung Quốc sản xuất đã và đang thống trị thị trường quốc
tế. Mức tăng trưởng mặt hàng này của Trung Quốc quá nhanh sau 1/1/2005.
Các loại áo sơ mi cotton và quần tăng 1.250% trong quý I/2005, đặc biệt là
quần cotton tăng 1.500%, đồ lót tăng 300%. Khối lượng hàng dệt may giá rẻ
do Trung Quốc sản xuất đã và đang ồ ạt thâm nhập thị trường Mỹ và EU làm
cho hàng nghìn các doanh nghiệp, cũng như
công nhân các nước này phải
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
đóng cửa và nghỉ việc. Theo hiệp hội quốc tế các nghiệp đoàn tự do (ICFTU),
ngành dệt may thế giới đang đứng trước nguy cơ mất 40 triệu việc làm sau khi
chế độ hạn ngạch dệt may dỡ bỏ báo cáo của ICFTU cho rằng, việc xoá bỏ
hạn ngạch dệt may dẫn đến nhiều nước chuyên xuất khẩu hàng dệt may theo
hạn ngạch như: Bangladesh, Campuchia, Philipine,Việt Nam, Nam Phi,
Dominica, Goatemala và Morixơ… phải
đối đầu với cuộc cạnh tranh hàng dệt
may của Trung Quốc và Ấn Độ giá rẻ.
* Hạn ngạch (quota) có thể nói là vấn đề bức xúc nhất cho các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã bị
hạn ngạch khống chế ở mức 1,8 tỉ USD (tương đương với 400 triệu đơn vị sản
phẩm). Sức cạnh tranh thấp do bị áp
đặt hạn ngạch đã làm giảm từ 5-7% thậm
chí 10% khả năng xuất khẩu so với các nước đã dỡ bỏ hạn ngạch. Tình trạng
bị áp đặt hạn ngạch cũng làm cho xuất khẩu mặt hàng dệt may giảm xuống rõ
rệt: từ 1.824 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2003 giảm xuống còn 1.563
triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2004, giảm 15%. Như vậy, các nước
Trung Quốc, Ấn Độ, vừa không b
ị áp đặt hạn ngạch, lại vừa được hưởng
lượng ưu đãi thuế quan phổ cập trong khi Việt Nam đối với thị trường Hoa
Kỳ vẫn bị áp đặt hạn ngạch và việc điều hành hạn ngạch cũng còn nhiều bất
cập sẽ trở thành thách thức, khó khăn lớn cho hàng dệt may Việt Nam thâm
nhập vào thị trường Hoa Kỳ.
*Hàng hoá của Việt Nam vẫn b
ị phân biệt đối xử về thuế và các biện
pháp phi thuế quan như bị áp dụng các điều khoản tự vệ, chống bán phá giá
mà Hoa Kỳ sẽ sử dụng, đặc biệt là đối với hàng dệt may của Việt Nam và
Trung Quốc. Đây sẽ là một rào cản lớn cho hàng dệt may Việt Nam thâm
nhập vào thị trường Hoa Kỳ.
* Hàng dệt may Việt Nam cũng chưa phong phú về chủng loại, số
lượng nhỏ chất lượng thấp, giá thành cao, nên sức cạnh tranh và tiêu thụ
không mạnh. Tỷ lệ gia công qua nước thứ ba cao, nên lợi nhuận thấp và
không phù hợp với tập quán kinh doanh của Hoa Kỳ. Đây là khó khăn lớn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét