xã hội chủ nghĩa nhằm: đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng số lao
động việc làm, tạo ra những ngành công nghiệp mũi nhọn từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.
- Sự chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế: Cùng với hai xu hướng của sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đang diễn ra trên thế giới là:
+ Chuyển dịch từ khu vực sản xuất sang khu vực dịch vụ, sự dịch chuyển
này thường diễn ra ở các nước có nền kinh tế phát triển cao chịu ảnh hưởnh
tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật.
+Chuyển dịch trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, chủ yếu là chuyển
dịch cơ cấu từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Xu hướng này
thường diễn ra ở các nước đang phát triển, gắn liền với quá trình công nghiệp
hoá.
Với điều kiện của nước ta hiện nay, đang trong quá trình công nghiệp
hoá, mở cửa nền kinh tế, với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và do
tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đại và quan trọng hơn là nước
ta đã thu hút được một nguồn lớn vốn đầu tư nước ngoài nên chúng ta có thể
tiến hành cùng một lúc hai sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên. Sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo ngành thể hiện tương đối rõ nét ở sự thay đổi cơ cấu tổng
sản phẩm trong nước (GDP). Tỉ trọng của nông-lâm-ngư nghiệp tăng lên đến
năm 1988 rồi sau đó giảm dần. Tỉ trọng của ngành công nghiệp giảm cho tới
năm 1990 do sự xáo trộn của cơ chế nhưng hiện nay do nguồn vốn đầu tư
tăng lên nên ngành công nghiệp đang bước sang một giai đoạn mới. Khu vực
dịch vụ tăng khá nhanh, từ năm 1992 đã vượt phần tỉ trọng của khu vực nông-
lâm-ngư nghiệp. Hiện nay tỉ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm
58,6% trong ngành kinh tế quốc dân.
Bên cạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành thì trong nội bộ các
ngành kinh tế cũng có sự chuyển dịch. Nếu như trước kia, công nghiệp nặng
được chú trọng phát triển thì hiện nay công nghiệp nhẹ và thực phẩm được
chú trọng phát triển. Các công ty thực phẩm, công ty sản xuất hàng tiêu dùng
5
có vốn đầu tư nước ngoài đã hình thành ngày càng nhiều hơn, chẳng hạn như
hàng may mặc có Piere Cacdin An Phươc, Hanosimec, Hafaco,…Đặc biệt là
các ngành thuộc kết cấu hạ tầng được chú trọng đầu tư thông qua con đường
hợp tác đầu tư nước ngoài như ngành bưu điện, bảo hiểm, thông tin liên lạc
( AIA, Prudential, Mobile Phone,…)
-Tăng số lượng việc làm: Kể từ khi có vốn đầu tư nước ngoài, số việc
làm được tạo ra là 665 nghìn việc làm trực tiếp và hơn 1 triệu việc làm có liên
quan cho người lao động. Do sự chuyển dịch về mặt cơ cấu nên số lương lao
động làm việc trong các khu vực công nghiệp,nông nghiệp, dịch vụ cũng có
sự biến đổi. Số lượng lao động đang tăng mạnh ở khu vực công nghiệp và
dịch vụ. Hiện nay tỉ lệ làm việc trong khu vực này là vào khoẩng gần 50%
trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Với việc hình thành các công ty liên doanh
sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, với đòi hỏi khắt khe về trình độ, tri thức và
việc trả công chính xác với những gì mà người lao động bỏ ra thì đây thực sự
là một cơ hội với lao động trẻ Việt Nam. Số lượng các công ty hình thành
cũng tỉ lệ thuận với số việc làm được tạo ra. Đây thực sự là một giải pháp với
vấn việc làm, một vấn đề rất nhạy cảm ở Việt Nam hiện nay.
- Hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn: Mặt khác, thông qua việc đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư FDI để hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn
như công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến, công nghiệp điện tử, du lịch
…, tranh thủ công nghệ nguồn của các nước có nền khoa học công nghệ tiên
tiến, kinh nghiệm quản lí, mở rộng thị trường góp phần hình thành đồng bộ cơ
chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Theo tổng
công ty Điện lực Việt Nam, trong giai đoạn 2001-2010, Việt Nam có kế
hoạch xây dựng và đưa vào vận hành 32 nhà máy điện, với tổng vốn đầu tư
nước ngoài khoảng 305 nghìn tỉ đồng( tương đương với 20 tỉ USD).
c. Nâng cao trình độ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lí và mở
rộng thị trường xuất khẩu.
6
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác
dụng hỗ trợ một cách đồng bộ về vốn về kĩ thuật công nghệ, về thị trường và
kinh nghiệm quản lí.Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một trong
những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá như: nâng cao năng lực quản lí,
trình độ khoa học công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu góp phần mở
rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò đó càng
quan trọng hơn khi nước ta đang trong tiến trình công nghiệp hoá hiên đại
hoá, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
tham gia quản lí của nhà nước.
- Nâng cao trình độ khoa học công nghệ: Nước ta vốn đi lên từ một nền
kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, lại phải chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Nền kinh tế mang nặng tính chật tự cung tự cấp, công nghiệp nhỏ bé lạc hậu,
các ngành dịch vụ chưa phát triển. Chiến tranh kéo dài làm tổn hao về người
và của, nhiều cơ sở công nghiệp mới được khôi phục và xây dựng đã bị tàn
phá, đường xá và cơ sở hạ tầng kĩ thuật bị hư hỏng nặng, đời sống xã hội bị
hư hỏng nặng. Do đó việc phát triển kinh tế xã hội trong quá trình đổi mới của
nước ta là cả một khó khăn lớn. Nền kinh tế nước ta muốn theo kịp các cường
quốc trên thế giới thì không thể không áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
Công nghệ là động lực mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển xã hội loài người.
Trong nền kinh tế thị trường, công nghệ được coi là vũ khí cạnh tranh mạnh
mẽ nhất. Nhờ công nghệ tiên tiến hơn chất lượng sản phẩm sẽ tốt hơn, năng
suất cao hơn, chi phí sản xuất sẽ giảm dẫn đến giá thành hạ tạo ra ưu thế cạnh
tranh trên thị trường. Công nghệ là một trong ba yếu tố tạo ra sự tăng trưởng
kinh tế: tích luỹ tư ban, dân số và lực lượng lao động và tiến bộ khoa học
công nghệ. Tiến bộ công nghệ thông qua đổi mới công nghệ tạo ra năng suất
lao động cao. Công nghệ là phương tiện hữu ích để nâng cao các chỉ tiêu phản
ánh sự phát triển của một quốc gia chẳng hạn như chỉ tiêu HDI, chỉ tiêu phát
triển nhân lực. Nếu như trước kia các nước phải mất tới hàng chục năm mới
7
tạo ra và áp dụng được các phát minh khoa học kĩ thuật thì hiện nay nước ta
có thể thừa hưởng thành quả lao động đó. Các doanh nghiệp nước ngoài
không chỉ mang theo đồng vốn đầu tư vào nước ta mà họ còn mang theo công
nghệ khoa học kĩ thuật vào. Điều đó có được là do bất kì một doanh nghiệp
nào khi bỏ vốn ra đầu tư cũng đều mong sẽ thu được lợi nhuận tối đa nên họ
sẽ đầu tư trang thiết bị khoa học kĩ thuật để cho ra mức sản lượng tối đa ứng
với chất lượng tốt nhất. Các trang thiết bị đó là: dây chuyền sản xuất hiện đại,
cách chọn nguyên liệu đầu vào, cấc chương trình marketing mix… Thông qua
đó chúng ta có thể học tập được các kinh nghiệm sản xuất, cách áp dụng
thành tựu khoa học kĩ thuật một cách hiệu quả nhất, để từ đó trình độ của
người lao động nước ta được nâng cao. Đây chính là một giải pháp tốt để
nâng trình độ nnền kinh tế Việt Nam lêm một tầm cao mới.
- - Nâng cao trình độ quản lí: Trong bối cảnh hiện nay, khi nước ta mới
được 30 năm độc lập trình độ quản lí nền kinh tế còn khá quan liêu bao cấp,
thủ tục hành chính còn rườm rà phức tạp, việc phân công lao động là chưa
đồng bộ từ trung ương cho tới địa phương… thì việc cải tổ lại bộ máy quản lí
nền kinh tế là rất cần thiết. Điều này là không hề dễ dàng, muốn làm được đòi
hỏi phải có đội ngũ lãnh đạo có một trình độ bao quát lớn, có năng lực thực
sự. Môi trường làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
phần nào đáp ứng được nhu cầu này. Trong các doanh nghiệp liên doanh, họ
sẽ áp dụng phương pháp quản lí tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới
giảm bớt gánh nặng về thủ tục hành chính rườm rà. Đối với sự điều hành của
hệ thống luật pháp nước sở tại thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài có mối quan hệ tác động hai chiều. Doanh nghiệp đó chịu sự tác động
của luật pháp và tác động ngược trở lại để làm cho hệ thống pháp luật được
hoàn chỉnh hơn. Nó phát triển và hoạt động tuân theo đúng pháp luật, sự sở
hữu của nó được thừa nhận và bảo hộ tại Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoàI là một pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Pháp luật chấp
nhận và khuyến khích chuyển vào Việt Nam vốn, công nghệ hiện đại và kinh
8
nghiệm quản lí tiên tiến của nước ngoài. Đồng thời nó cũng chỉ rõ ra bất cập,
điều chưa hợp lí trong hệ thống luật của nước sở tại. Kết quả thu được mang
tính đột phá như: quyền của nhà đầu tư đã được mở rộng (nhà đầu tư có
quyền chủ động lựa chọn dự án đầu tư, thời điểm đầu tư, tỉ lệ góp vốn pháp
định…); mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp ( các doanh nghiệp FDI
được mở chi nhánh văn phòng đại diện ở nước ngoài để tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động của doanh nghiệp có phạm vi kinh doanh trong và ngoài
nước); ưu đãi đầu tư thông qua thuế suất…Tất cả những chính sách này cho
thấy các chính sách qui định cơ chế quản lí thương mại đã thông thoáng hơn,
đây là dấu hiệu tốt của bộ máy quản lí kinh tế ở Việt Nam trong thời kì đổi
mới.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu: Từ khi có vốn đầu tư nước ngoài số lượng
sản phẩm được tạo ra nhiều hơn, nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong
nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu, từ đó nó làm tăng tổng thu nhập quốc
dân của Việt Nam. Trình độ phát triển của một đất nước được đánh giá thông
qua cán cân xuất nhập khẩu. Nước ta mặc dù nhập siêu vẫn cao hơn xuất siêu
nhưng trong những năm gần đây quy mô và tốc độ xuất khẩu liên tục được
mở rộng và gia tăng. Các doanh nghiệp FDI luôn có tốc độ tăng cao và chiếm
tỉ trọng lớn trong kim nghạch xuất khẩu (chiếm hơn 50% tổng kim nghạch
xuất khẩu của cả nước). Sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng đối với các thị
trường chủ yếu cũng có chuyển biến tích cực. Đặc biệt là thị phần vào thị
trường Mĩ tăng mạnh từ sau Hiệp định thương mại Việt- Mĩ có hiệu lực đến
năm 2003. Nhiều ngành sản xuất mới thu hút đông đảo lao động xã hội như
dệt may, thuỷ hải sản…được hình thành và phát triển mạnh góp phàn tạo việc
làm tăng thu ngoại tệ để phục vụ sản xuất và đời sống. Chất lượng hàng xuất
khẩu được nâng lên đáng kể một số mặt hàng đã có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới đồng thời tác động tích cực vào chất lượng sản phẩm trong
nước. Hiện nay gạo, dầu thô, thuỷ hải sản, hàng dệt may, giày dép, cà phê,
nhân điều, hạt tiêu của Việt Nam đạt hoặc xấp xỉ chất lượng quốc tế. Kết quả
9
thu được từ những bước tiến đó là thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam đã
được mở rộng. Hàng hoá của nước ta đã xuất sang Singapore với giá trị là
1290 triệu USD, Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất của nước ta, bên cạnh đó còn
có Thái Lan, Indônêxia, Malaixia, Hungari, Australia,… và đặc biệt là thị
trường Mĩ. Như vậy nhờ tốc độ gia tăng thị phần xuất khẩu ra nước ngoài của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà cán cân xuất nhập nước ta
đang lấy lại được thế cân bằng.
2. VAI TRÒ TIÊU CỰC
a. Tạo ra sự mất cân đối về cơ cấu vùng.
Cơ cấu đầu tư nước ngoài tuy có chuyển biến nhưng còn mất cân đối, nhất
là về cơ cấu vùng. Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài thường chọn các vùng
có điều kiện kinh tế xã hội phát triển và vùng khó khăn thì không hoặc là có
rất ít dự án và vốn đầu tư. Nếu có thì cũng chỉ là các dự án đầu tư vào các đồn
điền cao su, cà phê, hồ tiêu ở Đông Nam Bộ hoặc ở các cảng biển lớn. Điều
này có được là do ở các vùng phát triển như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng
có điều kiện về nguồn lao động dồi dào với trình độ văn hoá cao, cơ sở hạ
tầng tốt, thị trường tiêu thụ rộng lớn… Còn ở vùng sâu vùng xa, dân cư tập
trung thưa thớt nên nguồn lao động không đủ, địa hình không bằng phẳng gây
khó khăn cho việc xây dựng các công trình nhà máy sản xuất, đường xá. Từ
những thực trạng đó đã dẫn đến việc cơ cấu về vùng dần dần mất thế cân
bằng. Việc này tác động rất xấu đến trình độ phát triển ở nước ta vì nó tạo ra
sự phát triển không đồng đều đối với các vùng trong cả nước. Các vùng phát
triển sẽ ngày càng phát triển còn các vùng kém phát triển sẽ ngày càng thụt
lùi. Từ đó nó tạo ra sự phân hoá về trình độ theo lãnh thổ, dần làm mất đi khối
phát triển thống nhất của cả nước.
b. Vấn đề ô nhiễm môi trường, tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái
10
Số lượng các nhà máy được xây dựng ở nước ta tăng thêm tỉ lệ thuận với
khối lượng chất thải thải ra. Các nhà máy sản xuất đã và đang thải ra môi
trường sống một lượng lớn các chất độc hại. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường không khí, môi trường nước, môi trường đất…Nếu ta
không có những giải pháp khắc phục nhanh chóng thì nước ta nói riêng và thế
giới nói chung sẽ phải đối mặt với các dịch bệnh, các loại virut mới vô cùng
nguy hiểm. Chúng đang từng bước đe doạ sự sống trên trái đất.
Bên cạnh đó các công trình sản xuất mới được xây dựng sẽ phá vỡ hệ sinh
thái của nước ta. Sự mở rộng của đồn điền cao su, cà phê, hồ tiêu… sẽ làm
cho diện tích rừng bị thu hẹp, khiến môi trường sống của các loại động thực
vật mất đi. Việc mở rộng những cảng biển. sự xuất hiện của tàu biển luôn đối
mặt với việc ô nhiễm nước, sự cố loang dầu… gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường sống của các loại thuỷ hải sản.
Với vấn đề tài nguyên thiên nhiên, khi các nhà máy được xây dựng, nguồn
nguyên liệu đầu vào dành cho sản xuất cũng tăng lên. Muốn có nguyên liệu
sản xuất thì nhà đầu tư nước ngoài bắt buộc phải khai thấc nguồn tài nguyên
của nứơc ta. Điều này dẫn đến việc các loại khoắng sản như sắt, gang, bôxit,
thạch anh… sẽ trở nên ngày càng khan hiếm có nguy cơ cạn kiệt vì đó là
những nguyên liệu không thể thiếu trong ngành công nghiệp nặng. Thêm vào
đó việc xây dựng các nhà máy cũng ảnh hưởng đến môi trường đất làm cho
đất ngày càng xấu ảnh hưởng đến sản xuất nông, ngư nghiệp, một thành
phần không thể thiếu của nền kinh tế.
3. KẾT LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TẠI VIỆT
NAM.
Qua phân tích vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát
triển kinh tế xã hội ở trên ta thấy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
đã đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng, góp phần tích cực vào việc
thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới
11
đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực trên trường
quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự trở thành một trong những nguồn
vốn quan trọng cho đầu tư phát triển sản xuất trong nước, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở ra nhiều ngành
nghề mũi nhọn với các sản phẩm mới, nâng cao trình độ năng lực quản lí và
khoa học công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm
góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong quá trình mở rộng các quan hệ kinh tế và với hình thức thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nước ta sẽ tham gia tốt hơn vào sự phân công
lao động giữa các nước trong khu vực, hoà nhập nhanh hơn vào đời sống kinh
tế quốc tế đang diễn ra sôi nổi trên toàn thế giới. Nói tóm lại, nguồn vốn đầu
tư nước ngoài có vai trò vô cùng quan trọng, nó là một phần không thể thiếu
trong bản thể nền kinh tế thị trường trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
B. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.
1. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI.
Trong 6 tháng đầu năm 2004, trên địa bàn cả nước có 280 dự án được cấp
giấy phép với tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng kí trên 806,6 triệu USD, bằng
79,8% về số dự án và 89,7% về vốn đăng kí so với cùng kì năm trước. Tính
chung cả vốn đăng kí của các dự án cấp mới và tăng vốn mở rộng sản xuất
trong 6 tháng đầu năm 2004, cả nước đã thu hút được 1,63 tỉ USD, tăng
24,3%so với cùng kì năm trước ( khoảng bằng 49% mục tiêu dự kiến cho cả
năm 2000 là 3,3 tỉ USD). Về cơ cấu ngành lĩnh vực công nghiệp và xay dựng
chiếm khoảng 68% tổng vốn đầu tư mới. Về cơ cấu vùng, tập trung tại ba địa
12
bàn có cơ sở hạ tầng tương đối tốt như Bình Dương, TP Hồ Chí Minh, Đồng
Nai chiếm khoảng 54,9% tổng vốn đầu tư mới.
Như vậy, tính đến hết 30 tháng 6 năm 2004, trên phạm vi cả nước có 4677
dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng kí trên 43 tỉ USD, vốn pháp
định 19,2 tỉ USD. Về cơ cấu ngành, vốn đầu tư đăng kí tập trung trong lĩnh
vực công nghiệp và xây dựng chiếm 57,6% tổng vốn đầu tư. Về cơ cấu vùng
vốn đăng kí chủ yếu tại các địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt chiếm
khoảng 50,6% riêng Hà Nội chiếm 18% tổng vốn đầu tư đăng kí. Về cơ cấu
nước và lãnh thổ đầu tư, vốn đăng kí chủ yếu là từ các nước, đối tác châu Á
(Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông) chiếm khoảng
62% tổng vốn đầu tư đăng kí.
Nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tăng vốn mở rộng sản xuất kinh
doanh với số vốn tăng thêm đạt trên khoảng 828 triệu USD, gần gấp đôi cùng
kì năm ngoái, Trong 6 tháng đầu năm 2004 khối doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài đã thu hút thêm gần 3 vạn lao động đưa tổng số lao động trong khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài tính đến cuối tháng 6 năm 2004 đạt gần 71 vạn lao
động. Nguyên nhân của những kết quả trên là:
- Đảng và nhà nước ta tiếp tục khẳng định chủ trương tăng cường thu hút
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, xác định khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế được khuyến khích
phát triển lâu dài và bình đẳng với thành phần kinh tế khác. Hội nghị trung
ương Đảng khoá 9 đã đề ra nhiệm vụ: “Tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, nhất làcủa các tập đoàn xuyên quốc gia, hướng
mạnhhơn nữa vào những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt
là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Mở rộng các lĩnh vực đầu tư
và đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài phù hợp với lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế”
- Chính phủ đã tích cực chỉ đạo các bộ, ngành cải thiện môi trường đầu
tư, đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá cho các doanh nghiệp trong
13
nước và nước ngoài, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí. Từ đầu năm 2004, giá vé
máy bay đã được áp dụng chung cho người Việt Nam và người nước ngoài.
Cước phí dịch vụ viễn thông đã được cắt giảm. Pháp luật thuế thu nhập cá
nhân cũng đã được sửa đổi và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2004 theo hướng
giảm thuế với người có thu nhập cao để tạo thêm lòng tin với những nhà đầu
tư vào nước ta. Mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất là 25% mức lợi
nhuận thu được, trong trường hợp khuyến khích đầu tư thì mức thuế này cỉ
còn 10%. Mặt khác thuế đầu tư nước ngoài cho phép tỉ lệ đóng góp vốn của
các nhà đầu tư có thể từ 30% đên 100% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Hầu
hết các nhà đầu tư đều góp vốn với tỉ lệ khá cao, thường là trên 50% tổng số
vốn pháp định của doanh nghiệp. Nhà đầu tư có quyền tự chủ rất lớn trong
quá trình ra các quyết định đồng thời phần được của họ cũng khá cao so với
đối tác. Bên nước ngoài luôn có một hoặc một số chức quan trọng như : tổng
giám đốc hoặc phó tổng giám đốc thứ nhất trong doanh nghiệp. Điều này là
yếu tố khuyến khích và thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư một
khối lượng tài sản lớn vào Việt Nam. Nhà đầu tư có thể đàu tư tài sản vào
nước ta dưới dạng máy móc thiết bị, tiền mặt, nguyên vật liệu. Các loại tài sản
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư không bị tịch thu bằng biện pháp
hành chính, nguồn vốn của họ không bị quốc hữu hoá. Mặt khác các nhà đầu
tư được quyền chuyển đỏi hình thức đầu tư, chia, tách, sáp, nhập, hợp nhất
doanh nghiệp tạo điều kiện để nhà đầu tư chủ động hơn trong điều hành dự án
kinh doanh. Các địa phương cũng đã tăng cường hỗ trợ các nhà đầu tư trong
việc hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Nhiều địa phương cũng đã đơn giản thủ tục
hành chính, kịp thời tháo gỡ khó khăn trong việc triển khai dự án.
- Nền kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định cao cùng
với việc triển khai thực hiện cam kết về AFTA, Hiệp định thương mại Việtt
Nam- Hoa Kì… và đang tích cực đàm phán và chuẩn bị các điều kiện để gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã tạo điều kiện mở rộng thị trường
tiêu thụ làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét