Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tiền 1710532 triệu đồng, năm 2006 con số này chiếm 48,6% tổng dư nợ tương
ứng với số tiền 1710532 triệu đồng, năm 2007 dư nợ cho vay bằng VND
chiếm 48,6% tổng dư nợ tương ứng với số tiền 1710532 triệu đồng. Tương tự
như nợ cho vay bằng VND, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ qua các năm cũng
tương đối ổn định : năm 2005 dư nợ cho vay bằng ngoại tệ chiếm 51,4% tổng
dư nợ tương ứng với số tiền 1807496 triệu đồng, năm 2006 con số này chiếm
50,9% tổng dư nợ tương ứng với số tiền 2175466 triệu đồng, năm 2007 dư nợ
cho vay bằng ngoại tệ chiếm 51,3% tổng dư nợ tương ứng với số tiền
1309869 triệu đồng.
Bảng 1 :Bảng phân loại tín dụng theo loại tiền cho vay
Đơn vị : triệu đồng
Dư nợ Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Bằng VND 1710532 2098534 1243311
% 48,6 49,1 48,7
Bằng ngoại tệ(quy
đổi)
1807496 2175466 1309689
% 51,4 50,9 51,3
Tổng 3518028 4274000 2553000
1.1.2 Vai trò của tín dụng ngắn hạn:
Tín dụng ngắn hạn có vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế hiện nay.
Đây là nguồn vốn khá lớn của nền kinh tế, nguồn vốn vay ngắn hạn đã góp
phần làm ổn định, đảm bảo và mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp,
nâng cao đời sống của các cá nhân các tổ chức, là cơ sở cho một nền kinh tế
phồn vinh, và phát triển. Tín dụng ngắn hạn có vai trò quan trọng với nền
kinh tế nói chung, và đối với Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp nói
riêng.
Đối với nền kinh tế
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Là một trunh gian tài chính NHTM là nơi tập trung và tích tụ ngồn vốn
nhằm để đầu tư có hiệu quả trong nền kinh tế. Cho vay vốn là một trong các
hình thức mang tính chất đầu tư trong nền kinh tế của NHTM. Trong khi đó
thị trường cổ phiếu, trái phiếu và các tổ chức tài chính trung gian phi Ngân
hàng như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính,các quỹ đầu tư có chức
năng trong việc đưa vốn trung và dài hạn vào thị trường, thì NHTM có vai trò
quan trong đưa vốn ngắn hạn vào nền kinh tế. Thị trường tài chính với trung
gian tài chính đó là NHTM luôn luôn là nơi cung cấp,cất giữ nguồn vốn rất
lớn cho nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp
Cho vay ngắn hạn là nguồn vốn bổ sung nhanh chóng cho các nhu cầu
về vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc giúp các doanh
nghiệp gỡ bỏ được những khó khăn tạm thời về tài chính.Có nhiều trường
hợp, khi vay vốn Ngân hàng còn là giải pháp đúng đắn tiết kiệm chi phí cho
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động và nâng cao hiẹu quả
sản xuất kinh doanh, tận dụng được cơ hội phát triển sản xuất.
Cho vay ngắn hạn là yếu tố tác động trực tiếp đến sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Các khoản mục trong cho vay ngắn hạn tạo áp lực buộc các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Đối với các doanh nghiệp lớn, thì phần lớn nguồn vốn lưu động đều
được vay của Ngân hàng dưới hình thức cho vay ngắn hạn ứng trước để đáp
ứng các cơ hội phát triển kinh doanh, do tính chất của cho vay ứng trước nên
doanh nghiệp phải hoàn trả lãi trên toàn bộ dư nợ, kể cả dư nợ mà doanh
nghiệp chưa sử dụng đến, cho nên bắt buộc doanh nghiệp phải quay vòng vốn
nhanh.
Đối với Ngân hàng
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hoạt động tín dụng là hình thức nói chung và cho vay ngắn hạn nói
riêng là lợi nhuận chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Cho vay
ngắn hạn luôn là hình thức đầu tiên của Ngân hàng, tạo nguồn thu nhập chủ
yếu để bù đắp các chi phí (chi phí huy động vốn, chi phí cho hoạt động của
Ngân hàng – chi trả lương, chi phí quản lý). Mặt khác cho vay ngắn hạn còn
là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo khả năng thanh khoản của Ngân hàng,
làm tăng tính thanh khoản.
1.1.3 Các hình thức tín dụng ngắn hạn:
Để thực hiện việc quản lý các khoản cho vay vốn ngắn hạn, Ngân hàng
hay phân loại tín dụng theo các cơ sở khác nhau như theo phương thức cho
vay, theo mục đích sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo.
Theo mục đích sử dụng vốn vay, các khoản vốn vay ngắn hạn từ các
Ngaan hàng được sử dụng với các mục đích:
• Cho vay mua hàng dự trữ : Đây là một trong các mục đích mà các
doanh nhiệp đã sử dụng vốn vay đầu tiên khi tín dụng ra đời, các thương nhân
trước đây vì chưa thu được tiền bán hàng cho do đó họ cần có vốn để mua
hàng hoá mới, do đó phải những người này đã vay vốn Ngân hàng. Kỳ hạn
của các khoản vay này thường được Ngân hàng tính từ khi doanh nghiệp cần
vốn để mua hàng hoá cho đến khi nhận được tiền bán hàng và trả nợ cho
Ngân hàng. Đây là những khoản cho vay truyền thống của Ngân hàng, giờ
đây các khoản cho vay này thường chiếm hơn 50% giá trị của ấnh sách cho
vay của Ngân hàng thương mại.
• Cho vay vốn lưu động : đối với các khoản vay ngắn hạn này thì
thường được doanh nghiệp dùng để đáp ứng mức sử dụng và nhu cầu tín dụng
trong thời điểm cao điểm của chu kỳ dự trữ, các khoản vay ngắn hạn này cũng
thường được dùng để mua hàng hóa dự trữ ngoài ra còn có thể dùng để trả
lương cho công nhân nộp thuế Kỳ hạn của các khoản vay này thường được
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tính toán gần như với chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể đảm bảo,
cung cấp ngồn vốn cho khách hàng trong những lúc cao điểm của chu kỳ kinh
doanh.
• Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng: Để đầu tư các công trình
xây dựng lớn những người, doanh nghiệp vay vốn họ hay vay vốn trung và
dài hạn, tuy nhiên trong lúc chờ giải ngân vốn, doanh nghiệp nhiều lúc phải đi
vay vốn ngắn hạn để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh xây dựng, thuê
mướn công nhân, mua thiết bị xây dựng và các nguyên vật liêu. Đến lúc giai
đoạn xây dựng kết thúc, doanh nghiệp dùng nguồn vốn được giải ngân để
thanh toán cho những khoản vay ngắn hạn hoặc dùng công trình để vay thế
chấp dài hạn. Kỳ hạn của các khoản vay này được tính theo các giai đoạn xây
dựng khác nhau, có thể kéo dài hơn 1 năm.
• Cho vay để kinh doanh chứng khoán: Đối với những người vay để
kinh doanh chứng khoán chính phủ và tư nhân thường muốn có sự hổ trợ của
vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới, duy trì doanh mục chứng khoán hiện
có cho đến lúc bán hoặc tới kì hạn phải thanh toán. Những món vay kinh
doanh chứng khoán chính phủ thì luôn được các Ngân hàng sẵn sàng cho vay
vì đây là khoản cho vay có hiệu quả tốt và được đảm bảo bằng những chứng
khoán chính phủ mà các nhà kinh doanh đang nắm giữ. Thời hạn của các
khoản vay này nói chung là rất ngắn, có lúc chỉ là vay qua đêm hoặc trong vài
ngày.
• Cho vay kinh doanh bán lẻ: Các đối tượng khách hàng đối với loại
vay kinh doanh bán lẻ này thường là các người kinh doanh hàng hoá lâu dài
như ô tô, đồ dùng gia đình Ngân hàng thường cho người tiêu dùng vay
thông qua việc hỗ trợ mua trả góp các loại hàng hoá, các hợp đồng trả góp này
sẽ được Ngân hàng mua lại. Ngoài ra Ngân hàng có thể cho những người
kinh doanh bán lẻ vay dùng để mua hàng hoá và sử dụng ngay những hàng
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoá này để làm vật thế chấp cho Ngân hang và khi các loại hàng hoá này bán
thu được tiền sẽ trả lại cho Ngân hàng.
Ngày nay cho vay ngắn hạn càng trở nên đa dạng và phong phú hơn
nhằm đắp ứng nhưng nhu cầu tất yếu của khách hàng tuy nhiên ở các Ngân
hàng thương mại vẫn luôn duy trì một số phương thức tín dụng ngắn hạn cơ
bản:
• Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ cho vay tín dụng ngắn hạn mà
khách hàng nhường lại thương phiếu chưa đáo hạn cho Ngân hàng để đổi lấy
một số tiền bằng giá của thương phiếu trừ lãi chiết khấu và phí hoa hồng, đó
là hình thức cho vay gián tiếp trong khâu thanh toán trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay cungc
như trước đây, việc mua bán chịu hàng hoá là hành vi thương mại phổ biến
xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau như mục đích khuyến mại hay để cạnh
tranh thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Trong quá trình mua bán chịu hàng
hoá bên bán giao hàng hoá cho bên mua và chuyển quyền sở hữu cho bên
mua nhưng chưa nhận được tiền,bên bán chỉ nhận được một giấy nợ chờ
thanh toán. Giấy nợ có thể là một hoá đơn hàng hoá trả chậm hoặc là một
thương phiếu, trong trường hợp giấy nợ chưa đến kì hạn thanh toán, nhưng
người bán lại cần tiền để hoạt động sản xuất kinh doanh của mình họ có thể
nhường lại cho các Ngân hàng mà không cần đợi đến lúc đáo hạn.
• Cho vay trực tiếp: gồm một số nghiệp vụ như cho vay theo hạn mức,
thấu chi , cho vay từng lần
Cho vay theo hạn mức : Ngân hàng sẽ căn cứ vào nhu cầu sử dụng vốn,
chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để xác định hạn mức tín dụng.
Trong nhiệp vụ này Ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn
tín dụng, doanh nghiệp có thể yêu cầu Ngân hàng chi trả liên tục nhưng cũng
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
luôn phải có tiền vào để đảm bảo cuối quý dự nợ bằng hạn mức tín dụng quy
định.
Cho vay thấu chi: Ngân hàng cho khách hàng vay để khắc phục khó
khăn tạm thời về tài chính trong những trường hợp nhất định như khi doanh
nghiệp đã bán hàng nhưng chưa có tiền để trả lương cho nhân viên hoặc nộp
thuế Ngân hàng cho phép khách hàng có mức chi vượt số dư nợ cuối quý,
thu được trong thời gian nhất định. Nghiệp vụ này thường chỉ được thực hiện
đối với những khách hàng đặc biệt, đáng tin cậy và có uy tín.
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên quá trình luân
chuyển của hàng hoá. Khi mua hàng doanh nghiệp có thể bị thiếu vốn, Ngân
hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp thu được tiền
bán hàng, giữa Ngân hàng và khách hàng có thoả thuận với nhau về phương
thức vay, hạn mức tín dụng, và các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu
thụ. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp
thương nghiệp hặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có
quan hệ vay trả thường xuyên với Ngân hàng.
Cho vay từng lần: Là tiến trình cấp tín dụng dựa trên cơ sở nhu cầu tín
dụng của từng đố tượng vay cụ thể. Căn cứ trên cơ sở hợp đồng thực tế đơn
đặt hàng, thư tín dụng Ngân hàng xác định quy mô, thời hạn trả nợ, lãi suất
và yêu cầu đảm bảo khoản vay. Trong nghiệp vụ này thông thường chi có một
kỳ hạn trả nợ vào cuối thời hạn cho vay và lãi vay được tính theo phương
pháp lãi đơn.
1.2. Chất lượng tín dụng ngắn hạn
1.2.1 Khái niệm: Trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng
chất lượng tín dụng vẫn là một nội dung đuợc các nhà quản lý đặc biệt quan
tâm hơn cả. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải nâng cao chất
lượng hoạt động của mình. Chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
một dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của người sử dụng. Như vậy có thể hiểu
chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng là người gửi tiền và
vay tiền, phù hợp với sự phát triển kinh tế và xã hội và nó đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của tổ chức tín dụng. Có thể hiểu chất lượng tín dụng ngắn hạn
cũng vậy, thể hiện qua các khía cạnh sau:
 Đối với công ty tài chính
Việc cho vay với khối lượng là bao nhiêu, lãi suất vay, thời hạn vay
đều phải được tính toán cẩn thận sao cho phù hợp với năng lực bản thân công
ty tài chính, đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường của công ty, phản
ánh được sức mạnh của công ty trong quá trình cạnh tranh trên thị trường để
tồn tại.
 Đối với khách hàng
Chất lượng tín dụng thể hiện qua việc công ty có đáp ứng được đúng
nhu cầu của khách hàng hay không, có tạo điều kiện cho hoạt động đi vay của
khách hàng không: về lãi suất kỳ hạn hợp lý, thủ tục vay đơn giản thuận tiện,
thu hút được những khách hàng tốt, đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.
 Đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Tín dụng là mạch máu lưu thông của nền kinh tế, khi tín dụng góp phần
làm tăng trưởng kinh tế xã hội góp phần phục vụ qúa trình sản xuất phát triển
được thuận tiện hơn, giải quyết công ăn việc làm, khai thác những khả năng
phát triển của nền kinh tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín
dụng và tăng trưởng kinh tế, như vậy nó đã thể hiện đây là một khoản tín
dụng tốt.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngắn hạn vừa là một
khái niệm cụ thể được thể hiện qua các chỉ tiêu hoạt động của công ty tài
chính như: nợ quá hạn, lãi thu được từ hoạt động tín dụng ngắn hạn… Tuy
nhiên nó lại vừa mang tính trừu tượng như: việc hấp dẫn lôi cuốn khách hàng
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đến với công ty, việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển như thế nào… Chất
lượng tín dụng ngắn hạn cũng chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan
như: trình độ quản lý, quy trình tín dụng của công ty, định hướng phát triển
của công ty, trình độ của cán bộ công nhân viên trong công ty… Chịu ảnh
hưởng của các nhân tố khách quan như: môi trường pháp lý, môi trường hoạt
động kinh doanh, chính sách phát triển của chính phủ, thái độ của khách
hàng…
Việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng, thực hiện tốt mục tiêu phát
triển của công ty, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, dung hoà được 3 yếu tố
trên là một sự kết hợp giữa hoạt động của một con người với tổ chức, giữa các
tổ chức với nhau.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá:
1.2.2.1 Nhóm các chỉ tiêu định tính:
Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá sản lượng cho vay của Ngân hàng dựa
trên việc tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ, phải thực hiện theo đúng
hợp đồng cho vay của Ngân hàng.
Trên cơ sở đó hoạt động tín dụng của Ngân hàng cần phải nghiêm
chỉnh chấp hành luật pháp của nhà nước, trong đó có luật của các tổ chức tín
dụng , các quy định cho vay, các văn bản chỉ đạo của chính phủ và Ngân hàng
nhà nước.
Trong hợp đồng cho vay tín dụng, hoạt động tín dụng của Ngân hàng sẻ
có chất lượng khi nó thể đem lại những món vay có chất lượng. Khoản vay có
chất lượng sẻ là khoản vay đã thực hiện đúng cam kết mà đã thoả thuận trong
hợp đồng với Ngân hàng. Đó là những cam kết về các quy định ma Ngân
hàng đã đề ra. Giả sử một khoản vay mà ngay từ khi vay vốn đã không được
thực hiện đúng hợp đồng như đã cam kết thì khoản vay đó không thể có chất
lượng được. Hoặc khoản vay mà vốn thu được không phải có từ doanh thu
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
bán hàng của doanh nghiệp mà có từ nguồn vay khác của doanh nghiệp thì đó
cũng không phải là khoản vay đạt được chất lượng.
Đó là nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay của Ngân hàng
trên cơ sở cho vay định tính. Có thể nói đây là các chỉ tiêu đầu tiên mà khi
muốn cho vay có chất lượng thì cần phải đáp ứng được. Tuy nhiên để đánh
giá cụ thể về chất lượng tín dụng, phải phân tích các chỉ tiêu định lượng.
1.2.2.2 nhóm các chỉ tiêu định lượng:
- Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà
khách hàng không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền lãi của số
tiền đó và không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển
thành nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn đối với những khoản nợ này
(cao hơn lãi suất thông thường). Đây là những khoản những khoản nợ có độ
rủi ro cao và ngân hàng có khả mất vốn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trên
cơ sở nợ quá hạn, người ta người ta thường thông qua tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ
đầu tư rủi ro:
Tỷ lệ nợ quá hạn
ngắn hạn
=
Tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn
X 100%
Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn
Tỷ lệ đầu tư rủi
ro
=
Tổng dư nợ món vay có phát sinh nợ quá hạn
Tổng dư nợ cho vay
Hai chỉ tiêu này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng là tất nhiên. Do đó nợ quá hạn của ngân hàng là tất yếu. Tuy nhiên, để
đảm bảo an toàn, sinh lời và tăng khả năng cạnh tranh ngân hàng phải cố gắng
giảm thiểu tỷ lệ nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu trên rất quan trọng để đánh giá chất
lượng tín dụng ngắn hạn.
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho
vay. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai tỷ lệ là nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá
trị khoản nợ quá hạn, trong khi đó tỷ lệ đầu tư rủi ro xem xét món vay mà
phát sinh nợ quá hạn.
Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân
hàng, một ngân hàng có chính sách tốt là phải thiết lập quỹ dự phòng rủi ro đủ
mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không đủ khả năng thu hồi, để
tránh tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có
khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm
trọng. Tuy nhiên, nếu ngân hàng thực hiện xoá nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này
sẽ ở mức thấp nhất nhưng không có ý nghĩa thực tiễn. Thông thường khi lập
bảng theo dõi nợ quá hạn ngân hàng thường phân nợ quá hạn theo thời gian:
30, 60, 90, 120 ngày. Sự phân loại phân loại này có ý nghĩa đối với việc quản
lý chất lượng tín dụng và đánh giá để thiết lập dự phòng mất vốn.
Tỷ lệ mất vốn =
Tổng dư nợ quá hạn được xoá nợ
Dư nợ bình bình quân

Tỷ lệ này lệ này càng nhỏ càng tốt.
Những khoản nợ quá hạn, nếu khách hàng tiếp tục không trả được nợ
thì ngân hàng thực hiện khoanh nợ và xoá nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro. Khi
món nợ được xoá thì các nỗ lực thu hồi vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa
kinh tế. Xoá nợ đơn giản là một phương pháp quản lý tài chính của ngân hàng
chứ không phải là sự thừa nhận về mặt pháp lý rằng người vay không còn nợ
ngân hàng nữa.
Dự phòng mất vốn
Tỷ lệ dự phòng =
Tổng dư nợ
Lê Tiến Dũng Lớp: Tài chính 46B
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét