Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

Một số vấn đề về ứng dụng chuẩn Marc 21 trong quản lý thư viện

Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
ngàn thư viện trên toàn quốc vẫn cứ lập đi, lập lại khi biên mục một tài liệu, mà
đáng lẽ ra chỉ một nơi làm ra bản ghi đó và tất cả các thư viện lấy về cập nhật vào
CƠ SỞ DỮ LIỆU của thư viện mình. Hiện nay chúng ta có thể dễ dàng tham khảo
điều này trên mạng khi các thư viện quốc gia lớn trên thế giới sử dụng mục lục
trực tuyến như COPAC, LC, OCLC và trên tất cả các bản ghi thư mục ở trường
003 (Nhận dạng số kiểm soát) đều có ký hiệu nơi tạo ra bản ghi là các thư viện
quốc gia, hay các tổ chức thư viện lớn của thế giới.
Cấu trúc của đồ án:
 Chương 1: Khái niệm về mô hình quản lý thư viện.
 Chương 2: Tìm hiểu về mô hình chuẩn MARC
 Chương 3: Tình hình ứng dụng chuẩn MARC 21 vào quản lý thư viện hiện
nay.
 Chương 4: Giới thiệu bài toán.
 Chương 5: Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin thư viện theo chuẩn biên
mục dữ liệu MARC 21.
 Chương 6: Chương trìn Demo biên mục sách và ấn phẩm nhiều kỳ theo
chuẩn MARC 21.
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
5
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ MÔ HÌNH QUẢN LÝ THƯ
VIỆN
Thư viện được UNESCO định nghĩa khá tổng quát ”Thư viện, không phụ thuộc
vào tên của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào của sách, ấn phẩm định kỳ hoặc
các tài liệu khác, kể cả đồ hoạ, nghe nhìn và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ
chức cho bạn đọc sử dụng các tài nguyên đó nhằm mục đích thông tin, nghiên cứu
khoa học, giáo dục hoặc giải trí.”
Từ định nghĩa trên và qua khảo sát thực tế, phần lớn các thư viện hoạt động
theo mô hình:
Hình 1: Mô hình hoạt động của phần lớn các thư viện
• Quản lý: Phục vụ công tác giám sát, thông tin và quản lý toàn bộ hoạt động
chung của thư viện.
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
6
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
• Quản lý bạn đọc: Quản lý cộng đồng bạn đọc và tiến hành các hoạt động
nghiệp vụ liên quan đến bạn đọc như cấp thẻ, in thẻ, gia hạn thẻ và cắt hiệu
lực thẻ. . .
• Bổ sung: thực hiện công tác bổ sung vốn tài liệu của thư viện, quản lý từ
khi đặt mua đến khi tài liệu được xếp trên giá.
• Biên mục: thực hiện công tác biên mục bao gồm nhập mới, sửa chữa, xoá,
duyệt, thao tác xử lý, phân tích tổng hợp tài liệu, nhằm giúp người dùng
nắm được thông tin về mọi mặt của tài liệu – nội dung, công dụng, hình
thức để tiến hành chọn lựa phù hợp với yêu cầu tìm tin. Nói tóm lại, biên
mục nhằm mục đích tổ chức hệ thống thông tin hiện đại cho phép tìm kiếm
thông tin tài liệu đơn giản, nhanh chóng, dễ dàng và nâng cao hiệu quả khai
thác thông tin. Ngoài ra, còn thực hiện việc thu thập thông tin, tư liệu qua
Internet, TV, CDROM, và biên tập các nguồn thông tin tư liệu này nhằm
tạo ra nguồn thông tin số hoá đáp ứng yêu cầu khai thác của bạn đọc và
thống nhất với nguồn thông tin, tư liệu của thư viện.
• Quản lý mượn trả: thực hiện nghiệp vụ mượn, trả sách và quản lý bạn đọc.
Đây cũng là các tác nghiệp cơ bản của nghiệp vụ quản lý thư viện truyền
thống.
• Nhóm tra cứu: Đây là nhóm bạn đọc hoặc khách tham quan, những người
cần tra cứu thông tin tài liệu có trong thư viện để tìm những thông tin cần
thiết.
• Ấn phẩm định kỳ: quản lý các ấn phẩm lặp lại mang nhiều đặc thù riêng
với các mức định kỳ xê dịch từ nhật báo hàng ngày đến các ấn phẩm hàng
năm như niên giám hoặc thưa hơn nữa.
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
7
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU VỀ MÔ HÌNH CHUẨN MARC
2 1 Định nghĩa về MARC
Bản ghi MARC là viết tắt của Machine-Readable Cataloging record.
Machine-readable: Là những định dạng được lưu trữ, tổ chức sao cho máy vi
tính có thể đọc được.
Cataloging record: Là những thông tin được lưu trong những phích sách truyền
thồng. Trong những phích sách này thường lưu những thông tin như : Mô tả về
quyển sách, Các mục từ chính, Tiêu đề của quyển sách, Các thông tic khác như
Call Number.
MARC 21 có nghĩa là biên mục máy tính đọc được.
Năm 1996, Thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ và Thư viện Quốc gia Canada đã phối
hợp và biên soạn, phổ biến MARC 21. Từ đó đến nay, MARC đã trở thành khổ
mẫu nổi tiếng và được sử dụng rộng rãi trên thế giới như một chuẩn quốc tế trong
lĩnh vực thông tin thư viện.
Khổ mẫu MARC cho dữ liệu thư mục là một chuẩn được sử dụng rộng rãi cho
việc trình bày và trao đổi dữ liệu thư mục.
Một bản ghi Marc gồm 3 yếu tố:
- Cấu trúc bản ghi.
- Mã định danh nội dung.
- Nội dung dữ liệu của bản ghi.
Cấu trúc bản ghi là một triển khai ứng dụng tiêu chuẩn Quốc tế ISO 2079-Khổ
mẫu trao đổi thông tin (Format for Information Exchange) và tiêu chuẩn tương
đương của Hoa Kỳ ANSI/NISO Z39.2-Trao đổi thông tin thư mục(Bibliographic
Information Interchange).
Định danh nội dung là các mã và quy ước được thiết lập để xác định và đặc
trưng hóa các phần tử dữ liệu bên trong bản ghi, hỗ trợ việc thao tác với dữ liệu
đó, được quy định cụ thể cho từng khổ mẫu trong tất cả các khổ mẫu MARC.
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
8
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
Nội dung của các yếu tố dữ liệu tạo thành bản ghi MARC thông thường được
quy định bên ngoài các khổ mẫu này. Ví dụ về các chuẩn đó là: Mô tả thư mục
chuẩn Quốc tế (ISBD-International Standard Bibliographic Description), quy tắc
biên mục Anh-Mỹ AARC (Anglo American-Cataloguing Rule). Đề mục chủ đề
của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ(LCSH-Library of Congress Subject Headings)
hoặc các quy tắc biên mục; các từ điển chuẩn và hệ thống phân loại được sử dụng
bởi cơ quan tạo ra bản ghi. Nội dung của một số yếu tố dữ liệu mã hóa được quy
định cụ thể cho từng khổ mẫu MARC.
2 2 Phạm vi ứng dụng của khổ mẫu thư mục MARC
MARC 21 được sử dụng để làm một công cụ chứa thông tin thư mục về các tài
liệu văn bản in và bản thảo, tệp tin, bản đồ, bản nhạc, xuất bản phẩm nhiều kỳ, tài
liệu nghe nhìn và các tài liệu hỗn hợp. Khổ mẫu thư mục chứa các yếu tố dữ liệu
cho các loại hình tài liệu sau:
- Sách - sử dụng cho các tài liệu văn bản được in, bản thảo và các tài liệu vi
hình có bản chất chuyên khảo.
- Xuất bản nhiều kỳ - sử dụng cho tài liệu văn bản được in, bản thảo và các
tài liệu vi hình mà nó được sử dụng rộng rãi ở dạng từng phần với phương
thức xuất bản lặp lại (như ấn phẩm định kỳ, báo, niên giám…).
- Tệp tin - sử dụng cho phần mềm máy tính, dữ liệu số, các tài liệu đa
phương tiện định hướng cho sử dụng bằng máy tính, hệ thống hay dịch vụ
trực tuyến. Các loại thông tin điện tử khác đã mã hóa theo khía cạnh quan
trọng nhất của chúng.
- Bản đồ - sử dụng cho tài liệu bản đồ được in, bản thảo và vi hình bao gồm
tập bản đồ, bản đồ riêng lẻ và bản đồ hình cầu. Tài liệu có thể có bản chất
chuyên khảo hay xuất bản nhiều kỳ.
- Âm nhạc – sử dụng bản nhạc in, bản thảo và vi hình cũng như nhạc ghi âm
và những tài liệu ghi âm không phải nhạc khác. Tài liệu có bản chất chuyên
khảo hay xuất bản nhiều kỳ.
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
9
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
- Tài liệu nhìn-sử dụng cho những loại tài liệu chiếu hình, không chiếu hình,
đồ họa hai chiều, vật phẩm nhân tạo hay các đối tượng gặp trong tự nhiên
ba chiều, các bộ tài liệu. Tài liệu có thể có bản chất chuyên khảo hay xuất
bản nhiều kỳ.
- Tài liệu hỗn hợp - sử dụng chủ yếu cho những sưu tập lưu trữ và bản thảo
của hỗn hợp các dạng tài liệu. Tài liệu có thể có bản chất chuyên khảo hay
xuất bản nhiều kỳ.
2 3 Loại bản ghi thư mục
Các loại bản ghi thư mục MARC được phân biệt khác nhau bởi mã đặc thù
trong vị trí đầu biểu. Có những kiểu bản ghi sau:
- Tài liệu ngôn ngữ.
- Bản thảo tài liệu ngôn ngữ.
- Tệp tin.
- Tài liệu bản đồ.
- Bản thảo tại liệu bản đồ.
- Bản nhạc có chú giải.
- Bản thảo bản nhạc.
- Ghi âm âm nhạc.
- Tài liệu chiếu hình.
- Đồ họa không chiếu hai chiều.
- Vật phẩm nhân tạo ba chiều và đối tượng tự nhiên.
- Bộ tài liệu.
- Tài liệu hỗn hợp.
2 4 Cấu trúc bản ghi thư mục
Cấu trúc một bản ghi thư mục theo MARC bao gồm 3 thành phần chủ yếu:
- Đầu biểu.
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
10
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
- Danh mục.
- Các trường dữ liệu.
• Đầu biểu
Trường đầu tiên trong một bản ghi MARC và có độ dài cố định 24 ký tự.
Những yếu tố dữ liệu của trường này cung cấp thông tin cho việc xử lý bản
ghi. Những dữ liệu trong trường này là các con số hoặc giá trị ở dạng mã và
được xác định cụ thể cho từng vị trí ký tự.
• Danh mục
Thành phần của bản ghi MARC được tạo ra từ nhiều mục trường trong đó
mỗi mục trường chứa thông tin một trường dữ liệu cụ thể, bao gồm: nhãn
trường, độ dài trường và vị trí bắt đầu của trường trong bản ghi đó. Mỗi
mục trường có độ dài 12 ký tự. Những mục trường danh mục của các
trường kiểm soát có độ dài biến động được trình bày trước và theo trình tự
nhãn tăng dần. Tiếp sau là những mục trường của các trường có độ dài biến
động, được sắp xếp tăng dần theo ký tự đầu tiên của nhãn trường. Trình tự
lưu trữ của các trường dữ liệu có độ dài biến động trong bản ghi không
nhất thiết phải trùng hợp với thứ tự của các mục trường trong vùng Danh
mục. Những nhãn trường lặp lại được phân biệt bằng vị trí của những
trường tương ứng trong bản ghi. Phần Danh mục được kết thúc bằng một
ký tự kết thúc trường (một mã ASCII 1E hex).
• Trường dữ liệu
Dữ liệu trong bản ghi thư mục MARC được tổ chức thành trường có độ
dài biến động, mỗi trường được xác định bằng một nhãn trường ba ký tự.
Nhãn này được lưu trong mục trường tương ứng của trường tại vùng Danh
mục. Mỗi trường kết thúc bằng một ký tự kết thúc trường. Trường có độ
dài biến động cuối cùng trong bản ghi được kết thúc bằng một ký tự kết
thúc trường và một ký tự kết thúc bản ghi (mã ASCII 1D hex).
Trường dữ liệu bao gồm hai loại:
- Trường kiểm soát có độ dài biến động
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
11
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
Các trường kiểm soát được ký hiệu là Nhóm trường 00X (trong đó X có thể
là các số từ 1 đến 9). Những trường này được xác định bằng một nhãn trường
trong Danh mục. Các trường kiểm soát không có chỉ thị và trường con. Những
trường kiểm soát có độ dài biến động có cấu trục khác với trường dữ liệu có độ
dài biến động. Chúng có thể chứa hoặc một yếu tố dữ liệu đơn trị hoặc một loạt
những yếu tố dữ liệu có độ dài cố định được quy định cụ thể cho từng vị trí ký
tự tương ứng.
- Trường dữ liệu có độ dài biến động
Trường dữ liệu có độ dài biến động bao gồm những trường còn lại được xác
định trong khổ mẫu. Các trường này cũng được xác định bằng một nhãn trường
dài ba ký tự trong Danh mục. Ngoài ra, khác với trường kiểm soát, các trường
dữ liệu có độ dài biến động có hai vị trí chỉ thị ở đầu của mỗi trường và mã
trường con dài hai ký tự trước mỗi trường dữ liệu con bên trong trường.
Trường dữ liệu có độ dài biến động sắp xếp thành khối trường và có thể
nhận biết theo ký tự đầu tiên của nhãn trường. Ký tự này, ngoại trừ một vài
ngoại lệ, xác định yếu tố của dữ liệu bên trong bản ghi. Kiểu thông tin chi tiết
hơn của từng trường được xác định bằng hai ký tự còn lại của nhãn trường.
Bảng 1: Các khối trường của MARC 21
Khối nhãn
trường
Yếu tố dữ liệu
0XX Thông tin kiểm soát, định danh, chỉ số phân loại …
1XX Tiêu đề chính.
2XX
Nhan đề và thông tin liên quan đến nhan đề (nhan đề, lần
xuất bản, thông tin về in ấn).
3XX Mô tả vật lý…
4XX Thông tin tùng thư.
5XX Phụ chú.
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
12
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
6XX Các trường về truy cập chủ đề.
7XX
Tiêu đề bổ sung, không phải chủ đề hoặc tùng thư; trường
liên kết.
8XX Tiêu đề tùng thư bổ sung, sưu tập…
9XX Dành cho ứng dụng cục bộ.
Bảng 2: Một số nhóm trường đặc thù.
Kiểu nhóm Chức năng Ví dụ nhãn trường
X00 Tên cá nhân. 100,600,700
X10 Tên tập thể. 110,610,710
X11 Tên hội nghị. 111,611,711
X30 Nhan đề đồng nhất. 130,230
X40 Nhan đề tùng thư. 140,240,440
X50 Thuật ngữ chủ đề. 650
X51 Địa danh. 651
Bên trong các trường dữ liệu có độ dài biến động, hai loại định danh nội
dung là chỉ thị và trường con được sử dụng.
Chỉ thị:
Chỉ thị là hai vị trí ký tự đầu tiên trong trường dữ liệu có độ dài biến động
chứa thông tin để diễn giải hoặc bổ sung ý nghĩa cho dữ liệu bên trong trường.
Giá trị của mỗi chỉ thị được diễn giải một cách độc lập, tức là ý nghĩa của từng
giá trị trong hai chỉ thị sẽ không liên quan với nhau. Giá trị của chỉ thị có thể là
chữ cái hoặc chữ số. Khi ý nghĩa của chỉ thị không được xác định thì sử dụng
khoảng trống (mã ASCII SPACE) để thể hiện vị trí chỉ thị không xác định,
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
13
Khoa Công nghệ thông tin – Trường Đại học Thuỷ Lợi Hà Nội
thường sử dụng dấu #. Trong một số trường nhất định, một khoảng trống trong
vị trí chỉ thị có thể thông báo ý nghĩa hoặc có nghĩa là “không có thông tin”.
Mã trường con:
Mã trường con gồm hai ký tự dùng để phân biệt những yếu tố dữ liệu bên
trong một trường khi chúng đòi hỏi được xử lý riêng biệt. Mỗi mã trường con
gồm một ký tự phân cách trường (mã ASCII 1F hex), thường ký hiệu bằng một
ký tự $, tiếp sau là một định danh yếu tố dữ liệu. Định danh yếu tố dữ liệu có
thể là một ký tự chữ cái dạng chữ thường (ví dụ: a, b, c…) hoặc một ký tự
dạng số (ví dụ: 2,3,5…). Mã trường con được xác định độc lập cho từng
trường.
Mã trường con được quy định với mục đích xác định các thành phần của
yếu tố dữ liệu chứ không phải để sắp xếp theo thứ tự chữ cái.
GVHD: Trần Thị Phiến SVTH: Đỗ Thị Anh Đào - Lớp 43TH
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét