Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

phương hưóng và giải pháp cho phát triển hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam

cho người lao động là hết sức khó khăn, việc mở mang ngành nghề, đầu tư phát
triển hàng TCMN là biện pháp tốt nhất để huy động nguồn lao động này bởi hàng
TCMN chủ yếu được làm bằng tay không đòi hỏi cao về chuyên môn, trình độ kỹ
thuật hay trình độ ngoại ngữ.Theo thống kê tính đến nay cả nước có khoảng 2017
làng nghề thu hút được hơn 1,35 triệu lao động.
Hoạt động này không chỉ tạo ra 1 lượng lớn lao động mà còn giải quyết việc làm
cho lao động nhàn rỗi sau mỗi vụ sản xuất.Bên cạnh đó sản xuất hàng TCMNcòn
thu hút 1 lực lượng lao động đông đảo: người già, trẻ em, người tàn tật tham gia
hoạt động sản xuất ở những công đoạn đơn giản. Theo ước tính của hiệp hội làng
nghề, những nhóm đối tượng này chiếm đến 30-35% lao động đang làm việc trong
lĩnh vực này.
Bên cạnh đó tạo thêm công ăn việc làm sẽ làm tăng thu nhập của người lao động
góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống người dân. Đây cũng là 1 trong
những chính sách của đảng và nhà nước về “quốc kế dân sinh”. Ở rất nhiều làng
nghề thu nhập sản xuất hàng TCMN chiếm tới 70-80% tổng thu nhập của người
dân, cá biệt có những nơi như xã Bát Tràng thu nhập từ gốm sứ và dịch vụ chiếm
tới 99% tổng thu nhập toàn xã.
Có thể nói phát triển hàng TCMN truyền thống là biện pháp tích cực để tạo việc
làm cho mọi lớp lao động, mọi lứa tuổi ở mọi miền trên cả nước. Cho nên đầu tư
cho TCMN là việc làm cần thiết.
3. Phát triển hàng thủ công mỹ nghệ chính là giữ gìn bản sắc dân tộc
Chắc hẳn ai cũng biết các sản phẩm TCMN không chỉ có giá trị sử dụng mà còn
ẩn chứa giá trị nghệ thuật và văn hoá sâu sắc. Mỗi sản phẩm TCMN đã thực sự trở
thành nghệ thuật, là kết tinh tài năng, óc sáng tạo củ người thợ dựa trên bề dày văn
hoá nghìn năm của dân tộc. Nhiều sản phẩm đã vượt qua giá trị hàng hoá đơn
thuần trở thành những bảo vật được coi là biểu tượng đẹp đẽ của truyền thống dân
tộc Việt Nam. Đây cũng là 1 đặc trưng quan trọng của sản phẩm TCMN tạo ra sức
hấp dẫn riêng đối với du khác nước ngoài. Tìm đến sản phẩm là cách tiếp cận và
khám phá văn hoá Việt Nam hay nói cách khác đi đẩy mạnh xuất khẩu TCMN sẽ
góp phần giới thiệu và quảng bá văn hoá Việt Nam tới bè bạn quốc tế.
4. Xuất khẩu hàng TCMN góp phần đẩy mạnh XK tăng ngoại tệ cho đất
nước.
Trong những năm gần đây mặt hàng TCMN đã trở thành mặt hàng chủ lực xuất
khẩu ở nước ta. Hàng TCMN của Việt Nam đã có mặt và được ưa chuộng ở 100
nước trên thế giới với 3 thị trường mục tiêu là Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU. Trong
những năm gần đây thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nay không ngừng tăng.
Nhưng điều đáng chú ý là hiệu quả của việc xuất khẩu TCMN rất cao, thể hiện ở tỷ
lệ thu ngoại tệ. Nếu như nhiều mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn như dệt may,
giày dép nhưng tỷ lệ thu ngoại tệ thực lại rất thấp bởi phải nhập nguồn nguyên liệu
để sản xuất. Hàng TCMN sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu sãn có trong
nước, nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ,khoảng 3 -5%. Vì vậy giá trị
thực thu được từ xuất khẩu cho mặt hàng này trên thực tế rất cao từ 95-97%. Có
thể so sánh với 235 triệu USD xuất khẩu vào năm 2000 gía trị thực thu được từ
hàng TCMN tương đương với giá trị xuất khẩu 143 triệu USD hàng dệt may, xấp
xỉ 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Điều này có thể hiểu là nếu tăng giá
trị xuất khẩu lên 1 triệu USD hàng TCMN tương đương với xuất khẩu 4,7 triệu
USD. Đó là chưa kể đầu tư đối với hàng TCMN thấp hơn rất nhiều do sản phẩm
này không đòi hỏi đầu tư máy móc thiết bị.
Sản xuất và xuất khẩu mặt hàng TCMN sẽ phát huy được lợi thế so sánh và tạo
lợi thế cạnh tranh. Phát triển mặt hàng này không những có ý nghĩa kinh tế mà góp
phần giải quyêt các vấn đề xã hội. Chính vì thế mà TCMN đang là mối quan tâm
của các cấp, các ngành, các địa phương. Tuy nhiên thực trạng phát triển ra sao thì
chúng ta cấn tìm hiểu và xem xét để từ đó tìm ra đâu là mặt được đâu là mặt chưa
được và cùng đưa ra những phương hướng,giải pháp hợp lý.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
I, THỰC TRẠNG SẢN XUẤT
1. Quy mô sản xuất
Sản xuất ở các làng nghề vẫn còn nhỏ lẻ, quy mô vốn không nhiều 70% hộ gia
đình chỉ có vốn trên dưới 10 triệu đồng. Đối tượng này tập trung chủ yếu tập trung
tại các làng nghề sản xuất không đòi hỏi đầu tư nhiều như nghề mây tre đan, thêu
ren…Ngược lại cũng có 1 số làng nghề có các hộ gia đình với số vốn đầu tư tương
đối lớn, tập trung ở 1 số làng nghề như gốm sứ, đồ gỗ,…và hiện nay thì đang có xu
hướng gia tăng các cơ sở sản xuất có quy mô lớn nhưng diễn ra 1 cách chậm chạp.
2. Lao động
Hiện nay tại các làng nghề đều sử dụng lao động tại các địa phương tuỳ theo trình
đọ phát triển của làng nghề mà lực lượng lao động sẽ vừa làm nông vừa làm nghề
thủ công hay chuyển sang hẳn nghề thủ công. Theo thống kê hiên nay cả nước có
1,3 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và khoảng gần 3 triệu người làm thêm nghề
thủ công. Trên thực tế vấn đề bất cập đặt ra hiện nay là sản phẩm có chất lượng cao
phụ thuộc rất nhiều vào tay nghề người thợ nhưng đội ngũ lao động phổ thông và
có tay nghề trung bình lại chiếm con số lớn. Hầu hết thợ này được đào tạo bằng
hình thức truyền nghề trong gia đình chỉ có 1 số ít được đào tạo qua trường lớp.
Nhận thức được điều này 1 số địa phương đã có sự chú ý tới đào tạo nghề nhưng
hiệu quả chưa cao. Như ở Bát Tràng 1 số cá nhân đã đứng ra tổ chức dạy nghề
nhưng mới chỉ dừng lại ở việc tạo mẫu.
3. Công nghệ sản xuất
Do sự phát triển của khoa học công nghệ nên tại các làng nghề đã có sự đổi mới
công nghệ, sử dụng máy móc thiết bị thay thế lao động thủ công ở những công
đoạn có thể. Như ở Bát tràng các hộ sản xuất có xu hướng chuyển dần sang dùng
lò ga thay thế lò hộp mặc dù chi phí sản xuất cho xây dựng 1 lò ga khoảng 150
triệu đồng > 20-30 triệu đồng khi xây dựng lò than nhưng chi phí sản xuất cuối
cùng vẫn rẻ hơn do chi phí lao động và chi phí liên quan khác thấp hơn. Ngoài ra
việc sư dụng lò ga còn cải thiện đáng kể tình trạng ô nhiễm môi trường vì đến nay
đã có 200 lò nung bằng ga trong tổng 1100 lò đang hoạt động. Tuy nhiên chi phí
đầu tư ban đầu quá lớn nên nhiều hộ gia đình không có đủ tiền để mua và chuyến
sang sử dụng lò ga. Do đó nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ vay vốn cho
các doang nghiệp và các hộ gia đình.
4. Nguyên vật liệu
Khối lượng nguyên vật liệu cho các làng nghề sử dụng khá lớn. Tuy nhiên công
tác quy hoạch vùng nuôi trồng, khai thác và quản lý nguyên vật liệu phục vụ cho
sản xuất chưa được quan tâm thực sự. Việc vung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất
ở các làng nghề chủ yếu do tư thương đảm nhận. Các cơ sở sản xuất tại các làng
nghề đang gặp phải khó khăn lớn về nguyên liệu. Hiện nay hầu hết các cơ sở đều
phải đi mua nguyên vật liệu từ bên ngoài chỉ có 1 số ít các cơ sở sản xuất tự cung
tự cấp. Như ở làng nghề An Tịnh(Tây Ninh), Thái Mỹ (tpHCM), sử dụng tre trúc
trồng quanh nhà để sản xuất. Miền Đông Nam Bộ có 248 cơ sở sản xuất(87%) mua
nguyên vật liệu từ bên ngoài 90-100%, 22 cơ sở sản xuất(7,7%) mua từ bên ngoài
80-90%, số lượng cơ sở sản xuất mua bên ngoài dưới 80% chiếm tỷ lệ không đáng
kể. Thị trường cung ứng nguyên vật liệu cho các làng nghề chủ yếu do tư thương
đảm nhận vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ và thiếu ổn định chưa đảm bảo cho việc phát
triển bền vững của làng nghề trong dài hạn. Rõ ràng ở nước ta chưa quy hoạch
được vùng nuôi trồng nguyên vật liệu lớn ổn định cho các làng nghề. Vì vậy cơ
quan quản lý làng nghề cần sớm có chiến lược quy hoạch vùng trồng nguyên vật
liệu lớn ổn định đảm bảo cho sản xuất diễn ra liên tục.
5. Môi trường
Vấn đề nhức nhối nhất ở các làng nghề là tình trạng ô nhiễm môi trường sản xuất
và môi trường sinh hoạt. Đối với làng nghề Bát Tràng lượng khói bụi từ hàng ngàn
lò nung gốm toả ra làm không khí bị nóng và ô nhiễm. Làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ ở
Bắc Ninh, Nam Định lại bị ô nhiễm bởi tiếng ồn, bụi của hàng loạt máy cưa xẻ,
đục, chạm khảm liên tục, bụi gỗ, chất thải của các loại xe kéo than…
Một thực trạng nữa đó là phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh nghề thủ công
truyền thống đặc biệt là hộ kinh doanh đều sử dụng diện tích của chính hộ gia đình
mình là nơi sản xuất. Điều này ảnh hưởng rất xấu tới môi trường sống của hộ gia
đình.
Trong những năm qua hoạt động sản xuất hàng TCMN đã có những bước phát
triển nhất định theo hướng áp dụng công nghệ vào 1 số công đoạn sản xuất. Điều
đó thể hiện sự chuyên môn hoá bắt đầu xâm nhập vào sản xuất. Tuy nhiên vấn đề
còn tồn tại với mặt hàng này là tính chất nhỏ lẻ chủ yếu sản xuất tại các hộ gia đình
và việc thiếu nguyên vật liệu, thiếu những nghệ nhân giỏi để tạo ra những sản
phẩm có chất lượng cao và hàng loạt các vấn đề khác kéo theo.
II, TÌNH HÌNH TIÊU THỤ
1, Thị trường trong nước:
Sản phẩm của hàng TCMN rất phong phú và đa dạng. Hiên nay, các sản phẩm của
làng nghề đang được tiêu thụ ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu( bao gồm cả
xuất khẩu tại chỗ). Thị trường trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu tiêu thụ
sản phẩm TCMN.Và thị truờng chính vẫn là ngoại quốc với kim ngạch xuất khẩu
ngày 1 tăng đem lại 1 lượng ngoại tệ khá lớn cho nước nhà.
2, Thị trường nước ngoài

Bảng 1: xuất khẩu TCMN Việt Nam giai đoạn 2000-2006(đơn vị: 1.000USD)
STT sản phẩm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
1 mây,tre,
cói,lá, thảm
92.500 103.10
0
113.200 141.000 171.700 180.200 191.600
2 tốc độ tăng
(%)
11,5 9,6 24,5 21,7 4,9 5,7
3 gốm,sứ 108.393 117.08
2
123.480 135.860 154.600 255.300 274.300
4 tốc độ tăng
(%)
8 5,5 10 9 65,1 7,4
5 Sơn mài,
mỹ nghệ
36.219 34.043 50.996 59.612 89.673
6 tốc độ tăng
(%)
-6 50 17 50
7 Thêu 50.463 54.735 52.673 60.615 65.374
8 tốc độ tăng
(%)
8 -4 15 8
9 sản phẩm
đá và kim
loại quý
132.000 164.530
10 tốc độ tăng
(%)
24,6
11 Tông giá trị 287.60
0
308.900 340.40
0
397.300 515.800 569.000 630.400
12 tốc độ tăng
(%)
7,6 10,2 16,7 29,8 12 10,8
Nguồn Niên giám thống kê
Bảng 1 cho thấy kim ngạch xuất khẩu 1 số mặt hàng chủ lực của ngành TCMN
nói riêng cũng như kim ngạch xuất khẩu nói chung của ngành hàng này từ năm
2000 đến nay đều có những bước tăng trưởng ( ngoại trừ hàng sơn mài mỹ nghệ và
thêu là có sự biến động thất thường). Song nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng năm
sau so với năm trước thì sự tăng trưởng trên không mang tính ổn định, thậm chí
còn có bước tụt lùi rõ rệt. Nguyên nhân là do ngành TCMN Việt Nam chưa xây
dựng được 1 chiến lược phát triển thực sự khoa học và phù hợp với điều kiện thực
tế của đất nước.
Về cơ cấu: Hàng TCMN xuất khẩu hiện nay tập trung vào 4 nhóm sản phẩm
chính là: mây tre, cói lá, và thảm các loại; đồ gốm sứ thêu ren và dệt; sản phẩm từ
đá và kim loạ quý. 4 nhóm này đã chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của ngành
hàng. Tuy nhiên nhìn vào bảng trên có thể thấy mặt hàng gốm sứ đang được nhận
định là có khả năng phát triển nhanh song tốc độ tăng trưỏng chưa thực sự ổn định.
Các sản phẩm từ mây tre, cói, lá và thẩm các loại thì đang giảm ngay cả mặt hàng
thêu ren và dệt cũng không ổn định và phụ thuộc vào rất nhiều thị trường. Mặt
hàng đá và kim loại quý tuy mới hình thành nhưng cũng đã phát triển mạnh trong
mấy năm gần đây.
Hiện tại hàng TCMN nước ta có mặt ở gần 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó
có những thị trưòng có sức mua lớn và ổ định như: Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ.Dẫn
đầu kim ngạch xuất khẩu là gốm, sứ mỹ nghệ(100 triêu USD), mây tre đan(70
triệu), đồ gỗ mỹ nghệ (20 triệu USD), thêu ren thổ cẩm(20 triệu),thảm các loại(15
triệu). Nhìn chung thị trường của hàng TCMN đã thay đổi rất nhiều trong vài thập
kỷ gần đây. Trước đây hàng TCMN của nước ta được xuất khẩu chủ yếu sang các
nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu và các nước láng giềng Thái Lan, Lào,
Camphuchia thị hiện nay được bán ở hầu hết các nước trên thế giới, với 3 thị
trường mục tiêu:
Thị trường EU
Liên minh EU đang là thị trường có tầm quan trọng nhất. Năm 2005 trong những
thị trường xuất khẩu chính của hàng TCMN thì có tới 7 nước của EU chiếm 42%
tương đương với khoảng 24 triệu USD và gấp 4 lần lượng xuất khẩu sang Nhật hay
Hoa kỳ. Sản phẩm đồ gỗ đang thâm nhập rất tốt vào vào thị trường EU - thị trường
tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất. Hàng gốm sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang được tiêu
thụ mạnh trong thị trường này. Thông qua hội chợ Frankfrut hàng năm tại Đức 1 số
doanh nghiệp ta đã thành công trong việc nắm bắt nhu cầu khách hàng, ký được
nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm, sứ mỹ nghệ. Đặc biệt hàng gốm sứ Việt Nam
được nhiều khách hàng ưa chuộng, nhiều thương nhân chuyển từ đặt hàng các
nước khác tập trung sang Việt Nam và hứa hẹn đầu tư mở rộng sản xuất tăng sản
lượng hàng cung ứng cho thị trường này lên 2-3 lần. Các mặt hàng mây, tre, các
sản phẩm bàn ghế trang trí nội thất bằng nguyên liệu song mây, hàng thêu ren cũng
được thị trường này ưa chuộng. Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu 1 khối lượng
đáng kể các mặt hàng mây tre sang Tây Âu; thảm, cói, đệm sang Hà Lan, Tây Ban
Nha,Italy; hàng thêu ren sang Pháp, Thụy Sỹ, Áo, Đức. Trong khu vực thị trường
này hầu hết các nước đều nhập khẩu hàng TCMN của nước ta, trong đó có 1 số thị
trường nhập khẩu với khối lượng tuơng đối lớn.Thực tế cho thấy nhu cầu của thị
trường là rất lớn nhưng chúng ta lại không đáp ứng được do các cơ sở sản xuất
hiện nay còn nhỏ lẻ, phân tán.
Thị trường Mỹ
Những năm gần đây Hoa kỳ có nhu cầu nhập khẩu khoảng 1,3 tỷ USD/năm hàng
TCMN.Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 76,4 triệu USD. Các đơn hàng nhập
khẩu của Mỹ thường rất lớn vì đây là thị trường rất lớn và có chi phí kinh doanh rất
đắt nên chỉ có làm ăn lớn mới có thể tồn tại được. Trong khi đó, sản xuất hàng
TCMN của Việt Nam còn nhỏ lẻ, manh mún, các cơ sở sản xuất thưòng là các
công ty TNHH nhỏ, hợp tác xã chủ yêú là các hộ gia đình nên rất khó khăn trong
việc đáp ứng các đơn hàng có số lượng tương đối và thời gian giao hàng nhanh.
Ngoài ra sự hợp tác yếu kém giữa các doanh nghiệp cũng là 1 trở ngại đáng kể đối
với việc liên kết, sản xuất, chia sẻ các đơn hàng. Hơn nữa hàng TCMN của nước ta
mẫu mã chưa phong phú, chưa quan tâm tới nghiên cúư thị trường mà chủ yếu dựa
và mẫu mã được đặt trước hoặc mẫu mã truyền thống.
Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu rất lớn về nhiều loại hàng TCMN của
nước ta, nếu xét về thị trường từng nước thì Nhật bản là thị trường xuất khẩu lớn
thứ 2 sau Pháp. Theo thống kê của tổng cục hải quan Việt Nam năm 2006 Việt
Nam xuất khẩu sang Nhật khoảng 70,14 triệu USD trong đó 30,8 triệu USD hàng
gốm sứ. Trong các mặt hàng TCMN Việt Nam xuất khẩu vào Nhật thì hàng gốm
sứ, đồ gỗ nội thất và mây tre đan là mặt hàng chính, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
này chiếm 50-85% kim ngach xuất khẩu TCMN hàng năm của nước ta sang Nhật
Bản. Mặc dù có nhiều lợi thế so sánh trong việc xuất khẩu nhưng cũng không ít
những khó khăn. Tỷ trọng xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam tại thị trường
Nhật Bản nói chung còn nhỏ bé so với tiềm lực thực tế chủ yếu là do chất lượng
hàng hoá và khả năng tiếp cạn thị trưòng còn yếu.
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
1. Những thành tựu đạt được
Trong mấy năm vừa qua ngành hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt được những thành
tựu đáng khích lệ, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 630,4 triệu USD, năm 2007
đạt 750 triệu USD và mục tiêu năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD. Ngành công nghiệp
“không khói” này có rất nhiều thế mạnh mà nhiều nước trong khối ASEN không
có, chính vì vậy mà giá trị ngoại tệ thu đuợc hàng năm từ kim ngạch xuất khẩu là
rất lớn chiếm 95-97%. Sự kiên gần đây nhất là việc sát nhập Bộ Công Nghiệp và
Bộ Công Thương tạo nên sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất và giao thương. Chính
điều này sẽ là nền tảng tốt cho phát triển của mặt hàng này. Cùng với sự kiện Việt
Nam gia nhập WTO nên có thêm nhiều cơ hội để giao luư học hỏi và tiếp cận với
các thị trường mới. Trong những năm gần đây chúng ta đã tổt chức được nhiều các
cuộc hội chợ, triển lãm ở trong và ngoài nước. Bên cạnh đó ở nước ta đã bắt đầu
hình thành loại hình du lịch làng nghề (loại hình du lịch văn hoá có chất lượng cao)
2. Hạn chế và nguyên nhân tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì việc sản xuất và tiêu thụ hàng TCMN còn
tồn tại 1 số hạn chế. Đây chính là nguyên nhân làm cho tốc độ tăng trưởng mặt
hàng này sụt giảm trong mấy năm gần đây và có nguy cơ bị vỡ kế hoạch
2.1 Trước hết là về nguồn nguyên vật liệu, các địa phương khai thác bừa bãi,
thiếu quy hoạch đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu dẫn đến tình trạng nguồn: gỗ,
tre, giang, mây dần cạn kiệt. Hệ qủa là các doanh ngiệp phải nhập khẩu 50% từ
Lào, Camphuchia, Indonexia. Giá của các nguyên liệu mât tre tăng tù 7000 đến
1700d/cây chỉ trong vòng 2 năm gần đây. Nhìn chung tình trạng cạn kiệt nguyên
vật liệu thô là nguy cơ chung với nhà sản xuất Việt Nam. Trong khi đó các ngành
phụ trợ của nước ta hiện nay chưa phát triển, các nhà xuất khẩu phải thường xuyên
nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài, vd như: sọi sơn mài PU và chất nhuộm
để thực hiện khâu hoàn thiện sản phẩm, vải có chất lượng cho sản xuất hàng thêu
ren hầu như phải nhập khẩu hoàn toàn làm cho chi phí nguyên vật liệu chiếm 60%
chi phí sản xuất. Sự mất chủ động trong cung ứng nguyên vật liệu làm giảm khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2 Doanh nghiệp yếu trong thăm dò thị trường
Các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN hầu như không xuất khẩu trực tiếp nên
không năm được nhu cầu khách hàng. Mặt hàng này đã có mặt ở hơn 100 quốc gia
và vùng lãnh thổ nhưng lại không ổn định cả về số lượng và chất lượng. Đã như
doanh nghiệp lại không nhận thức được sự quan trọng của vai trò và việc thiết kế
sang tạo mẫu mã sản phẩm. Khi quan sát 10 cơ sở sản xuất tại Đồng Nai thì có tới

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét