Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp
nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Các doanh nghiệp nhà nước là những
doanh nghiệp thường hoạt động trong nhưng lĩnh vực và ngành kinh té đóng vai trò quan
trọng của nền kinh tế và của đất nước nên lượng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước
thường khá lớn ,có ảnh hưởng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Nguồn vốn tư nhân.
Nguồn vốn khu vực tư nhân bao gồm phần tích luỹ của dân cư, của các doanh nghiệp
dân doanh ( công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác
xã…) được đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển.
Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào :
• Trình độ phát triển của đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp
thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp)
• Tập quán tiêu dùng của dân cư
• Chính sách động viên của nhà nứơc thông qua chính sách thuế thu nhập và các
khoản đóng góp đối với xã hội.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho
đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có
những bước phát triển mạnh mẽ. Trong tiến trình đổi mới 20 năm qua, và bài học cho sự
phát triển trong thời gian tới, có thể nhắc đến 3 nguồn lực mà hầu hết các nước “hoá rồng”
đã thực hiện. Đó là đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và nguồn lực khu vực tư nhân trong
nước. Nếu thời gian tới, chúng ta khai thác cả 3 động lực này một cách cân bằng và nhất là
khu vực tư nhân trong nước, thì nền kinh tế phát triển đáng kể, chống đỡ được những chấn
động từ các nhân tố bên ngoài mà ta không chủ động được. Khi nền kinh tế hội nhập cao,
tính thích ứng càng đòi hỏi cao hơn và sức ép từ những biến động thị trường đòi hỏi ngày
càng lớn hơn.
Thị trường vốn
Thị trường vốn bao gồm : thị trường chứng khoán (TTCK), thị trường bất động sản,
thị trường thuê mua tài chính, và các định chế tài chính khác (NHTM, công ty bảo hiểm,
QTDND…).
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Thị trưòng vốn là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư
bao gồm cả nhà nước và các loại hình DN. Thị trường vốn mà cốt lõi là TTCK như một
trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn
nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền
địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế
mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng có
thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng việc phát
hành các chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái… Nó góp phần vào việc kiềm chế lạm
phát do chính phủ không phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu
cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu qủa, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van
điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi có hiệu qủa
hơn.Trên thị trường vốn, bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do vậy
người sử dụng vốn phải quan tâm đến việc sinh lời của mỗi đồng vốn
2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể được xem xét như là các dòng lưu chuyển vốn
quốc tế (international capital flows).Thực chất các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị
quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.Trong các dòng
lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển
thường được các nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm.Dòng vốn này diễn ra dưới
nhiều hình thức như:
-Tài trợ phát triển chính thức (ODF-official development finance) trong đó
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA-official development assistance) chiếm tỷ trọng
chủ yếu.
-Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
a.Nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA )
Khái niệm về ODA:
Theo Ủy Ban Viện Trợ Và Phát Triển thì: Viện trợ phát triển chính thức là nguồn
vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ cho vay và với các điều
kiện ưu đãi; ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển, được
các cơ quan chính thức của chính phủ trung ương và các cơ quan thừa hành của chính phủ,
các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Hiệp định quốc tế hỗ trợ
này được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Theo Nghị Định 87/CP của Chính Phủ Việt Nam, ODA là viện trợ không hoàn lại
hoặc là cho vay ưu đãi của các tổ chức nước ngoài, với phần viện trợ không hoàn lại chiếm
ít nhất 25% của khoản vốn vay.
Như vậy, ODA là nguồn vốn từ các cơ quan từ các cơ quan chính thức bên ngoài
cung cấp cho các nước đang và kém phát triển hoặc là các nước gặp khó khăn về tài chính
nhằm tạo điều kiện thuận lợ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
Đặc điểm của ODA:
Do chính phủ của một nước cấp hoặc các tổ chức quốc tế cấp cho các cơ quan chính
thức của một nước (Hỗ trợ song phương và hỗ trợ đa phương).
Không cấp cho những dự án mang tính chất thương mại mà chỉ nhằm mục đích nhân
đạo, thể hiện nghĩa vụ, đồng thời là sự quan tâm giúp đỡ của các nước đối với nhau, tăng
cường thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại tốt đẹp giữa các quốc gia hoặc là các tổ chức
quốc tế với các quốc gia.
Tính ưu đãi chiếm trên 25% giá trị của khoản vốn vay. Yếu tố này được xác định
dựa vào yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời hạn ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ
suất chiết khấu. Công thức tính tỷ lệ yếu tố không hoàn lại như sau:
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
GE=100% [1 –
d
ar
][1 -
)(
)1(1)1(1
aGaMd
dd
aMaG
−
+−+
]
Trong đó: r - tỷ lệ lãi suất hàng năm
a - số lần trả nợ trong năm
d - tỷ suất chiết khấu
G - thời gian ân hạn
M - thời hạn cho vay
ODA đòi hỏi phải có vốn đối ứng từ bên tham gia nhận viện trợ để họ có trách nhiệm
hơn trong việc sử dụng ODA.
ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài với
mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Tài trợ ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ
nguồn ODF nào khác.Ngoài các yếu tố ưu đãi về lãi xuất, thời hạn cho vay, khối lượng cho
vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố vốn không hoàn lại ít nhất là 25%.Việc
thu hút ODA phục vụ cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam diễn ra trong bối
cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết,
Chính phủ Việt Nam đã kí kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế và ODA.
b. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Khái niệm:
FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ lớn
để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia điều
hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro
và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất
kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn,có ý nghĩa
quan trọng trong đầu tư và phát triển kinh tế không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả
các nước công nghiệp phát triển.
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Nguồn vốn đầu tư trực triếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn
nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp
nhận.Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư,nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích
đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn
bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề
mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,công nghệ hay cần nhiều vốn.Vì
thế,nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá,chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Các hình thức tồn tại chủ yếu của FDI :
-Hợp đồng hợp tác kinh doanh CBC (Contractual-Business-Cooperation)
-Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture interprise).
-Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce) là.
-BOT (Build , operate and transfer)
-Khu chế xuất: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu chế xuất được
hiểu là “ khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất khẩu,
trong đó bao gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động, có ranh giới về mặt địa lý xác
định, do chính phủ quyết định thành lập. Đặc biệt, khu chế xuất cho phép các doanh nghiệp
nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất hành xuất khẩu miễn thuế dựa trên kho quá cảnh.
c. Nguồn vốn vay tín dụng từ ngân hàng thương mại
Khái niệm:Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay một thời
gian phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay.Các nước cho vay vốn thu lợi nhuận qua
lãi suất tiền vay
Đặc điểm:
Đối tượng vay vốn thường là các doanh nghiệp. Độ rủi ro cao đối với các chủ đầu tư
khi các doanh nghiệp vay vốn hoạt động không hiệu quả,làm ăn thua lỗ, phá sản.
Vốn vay dưới dạng tiền tệ,các doanh nghiệp vay vốn có toàn quyền sử dụng.
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận thông qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế
ước vay, độc lập với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vay,có quyền sử dụng những tài
sản đã thế chấp hoặc yêu cầu cơ quan bảo lãnh thanh toán khoản vay trong trường hợp bên
vay không có khả năng thanh toán.Các ngân hàng cung cấp vốn tuy không tham gia vào
hoạt động của doanh nghiệp, nhưng trước khi nguồn vốn được giải ngân thì họ đều nghiên
cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh thế chấp các khoản vay để giảm
rủi ro.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh
doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay ,của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất
quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các NHTM thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng
nhu cầu xuất,nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể
được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng
của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng TM, các nước tiếp nhận vốn không phải chịu bất cứ
một ràng buộc nào về chính trị, xã hội, có toàn quyền sử dụng. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối
với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe,thời gian trả nợ nghiêm ngặt.Và do đây là
nguồn vốn cho vay với lãi suất TM nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả
nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, dẫn đến nguy cơ vỡ
nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
d. Thị trường vốn quốc tế.
Ưu điểm
-Có thể huy động vốn với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về
vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng quan hệ cho vay
để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
-Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế .Với việc trực tiếp
tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy TTCK Việt Nam phát
triển trong tương lai.
-Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán,trao đổi trên thị trường thứ cấp,
chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Đối với hình thức huy động này, người đi vay có thể tăng thêm tính hẫp dẫn bằng
cách đưa ra một số yếu tố kích thích.
Nhược điểm
- Hệ số tín nhiệm của Việt Nam rất thấp. Chính vì vậy, nếu phát hành thì trái phiếu
của Việt Nam sẽ phải chịu lãi suất ở mức cao.
-Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, so với một
số hình thức huy động vốn khác thì thời gian chuẩn bị vẫn còn tương đối dài.
III. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG
NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.Nguồn vốn trong nước là quyết định
Một ngôi nhà muốn vững chắc thì cần có móng tốt. Đối với nền kinh tế một nước
cũng vậy. Nguồn vốn trong nước chính là nền móng cơ bản và bền vững cho sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước đó. Từ những năm cuối thế kỉ XX, vấn đề phát huy nội lực
được nói đến nhiều tại Việt Nam. Trước trào lưu toàn cầu hoá ngày càng mạnh, đặt vấn đề
tăng cường và phát huy nội lực để chủ động phát triển trong ổn định là cần thiết.
Nguồn vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế
và phát triển xã hội. Trong đó, nguồn vốn trong nước luôn giữ một vị trí quan trọng. Thực
trạng về việc huy động và sử dụng vốn trong những năm gần đây càng chứng tỏ tầm quan
trọng ấy. Giai đoạn 2001-2005 riêng vốn nhà nước hàng năm chiếm 52-53% tổng đầu tư
toàn xã hội. Đây là nguồn vốn quan trọng góp phần định hướng , tạo ra cơ cấu kinh tế và
thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Nguồn vốn trong nước cũng thể hiện được nhiều ưu điểm so với nguồn vốn nước
ngoài.
Thứ nhất, nguồn vốn trong nước mang tính ổn định, bền vững và giảm thiểu được
những hậu quả xấu tác động đến nền kinh tế trong nước do sự tác động của thị trường tiền
tệ thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 là một minh chứng cho sự lệ
thuộc quá nhiều vào đồng vốn nước ngoài dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền giữa các quốc
gia. Một ví dụ nữa cho sự ổn định của nguồn vốn trong nước đó là nguồn vốn trong dân.
Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn. Cuộc khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống
kê cho thấy, chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu cho đời sống (tức là nguồn tích luỹ) bình
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
quân 1 nhân khẩu 1 tháng của hộ gia đình năm 2004 tính chung cả nước là 114,4 nghìn tỷ
đồng. Nguồn thì như vậy, nhưng số vốn thực tế mới thu hút vào đầu tư phát triển trong
năm 2004 được 69,5 nghìn tỷ đồng, tức là vẫn còn khoảng 42 nghìn tỷ đồng (tương đương
với trên 2,6 tỷ USD) chưa được thu hút vào đầu tư tăng trưởng. Ưu thế của nguồn vốn của
dân là không phụ thuộc vào bên ngoài, cũng như không chịu ảnh hưởng của những biến
động khôn lường từ bên ngoài. Một ưu thế nữa của nguồn vốn trong dân là do nguồn vốn
này có chủ sở hữu thật sự và cụ thể, tỉ suất đầu tư thấp do vậy hiệu quả đầu tư cao hơn,
cùng một lượng vồn nhưng sẽ tạo ra tốc độ tăng trưởng cao hơn so với vốn nhà nước. Về
vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá
thấp. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến là việc các nhà đầu tư ngần
ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí
họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu
tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã lên
tới 8 tỷ USD. Trên thế giới, nước nào cũng muốn thu hút đầu tư cho phát triển. TÌnh trạng
khát vốn diễn ra ở mọi nơi. Địa bàn chọn lựa đầu tư rất rộng. Nếu Việt Nam khó khăn làn
sóng đầu tư náy sẽ nhỏ dần, thậm chí mất hẳn. Mọi cố gắng lôi lại đà đó không hề dễ dàng.
Như vậy, nguồn vốn nước ngoài không phải bao giờ cũng ổn định và bền vững. Chúng ta
không thể mãi trông đợi vào nguồn tài trợ từ bên ngoài mà phải đứng vững trên đôi chân
của chính mình.
Đối với nguồn vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cho giải
ngân tốt hơn. Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có
vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng và không có sẵn vốn đối ứng trong các
dự án. Điều kiện con người và kinh tế đã làm chậm quá trình giải ngân. ODA vẫn thường
được ví như “con dao hai lưỡi”. Việc sử dụng vốn ODA cũng đi kèm với những ràng buộc
về kinh tế hoặc chính trị đối với nước được tiếp nhận vốn. Mỗi nguồn ODA có thời gian ân
hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ một
dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi.
Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3 năm.
Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa
kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào. Đây là lãng phí kép:
tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. đặc biệt mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
cơ hội. Trong hội nghị tư vấn các nhà tài trợ 2007 , ông Donal Brown, trưởng đại diện văn
phòng cơ quan phát triển Anh (DFID) đã khẳng định: “ODA không phải là nguồn vốn cho
tăng trưởng duy nhất. Do đó Chính phủ nên tìm các nguồn vốn khác, vì chỉ vài năm tới, khi
Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, các nhà tài trợ sẽ không giành cho
Việt Nam những khoản vay như hiện nay”. Như vây, việc sử dụng tốt nguồn vốn trong
nước sẽ tạo điều kiện cho sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, FDI cũng như các nguồn
tài trợ khác. Và nguồn vốn trong nước bao giờ cũng tạo ra sự chủ động trong hoạt động
đầu tư của nền kinh tế.
Thứ hai, nguồn vốn trong nước là nguồn quan trọng cho đầu tư vào các vùng còn
khó khăn, đói nghèo, vùng sâu, vùng xa nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các
vùng miền trong cả nước, tạo điều kiện khai thác các khả năng tiềm tàng của đất nước,
phát triển kinh tế - xã hội một cách đồng bộ và bền vững. Bởi lẽ, các nguồn vốn nước
ngoài sẽ chỉ chủ yếu tập trung đầu tư cho những vùng kinh tế trọng điểm, nổi trội của nước
ta như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh
Thứ ba, nguồn vốn trong nước đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước theo chiều
sâu, đổi mới công nghệ đã nâng cao năng lực cạnh tranh để thích ứng ngày càng tốt hơn
trước xu thế hội nhập ngày nay, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự phát
triển này cũng góp phần cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế nước ta, từ đó tạo cơ hội cho
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, nguồn vốn trong nước đầu tư vào xây dựng cơ bản tạo các điều kiện, cơ sở
vật chất cho đất nước, vốn chi cho đầu tư phát triển được ưu tiên cho những công trình hạ
tầng kinh tế - xã hội trọng điểm để từ đó tạo dựng hình ảnh mới trong mắt các nhà đầu tư
nước ngoài, tạo cơ hội cho thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta. Minh chứng
cho điều đó là việc sử dụng vốn có hiệu quả vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu
công nghiệp. Đầu những năm 2000, ngay từ khi thành lập các khu công nghiệp tại các tỉnh
Trung du, miền núi Bắc Bộ việc xây dựng cơ sở hạ tầng và theo đó là việc vận động, lựa
chọn chủ đầu tư tham gia xây dựng khu công nghiệp cũng là vấn đề mang nhiều trở ngại
do đặc điểm địa hình kinh tế của vùng kém thuận lợi. Trước tình hình đó cần có sự hỗ trợ
của nhà nước. Đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, thủ tướng đã cho phép hỗ trợ vốn từ ngân
sách trung ương và địa phương. Nhờ đó mà hầu hết các khu công nghiệp này đã từng bước
hoàn thành về cơ bản các công trình hạ tầng và thu hút nhiều dự án đầu tư sản xuất.
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Thứ năm, đầu tư trong nước cũng là một nguồn lực tốt, thậm chí năm 2006 đầu tư
trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các doanh nghiệp tư nhân, các
cá nhân, do đó họ có lợi ích thực, thúc đẩy nâng hiệu quả càng cao càng tốt.
Thứ sáu, nguồn vốn trong nước, đặc biệt là vốn từ ngân sách nhà nước là nguồn
quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề cấp thiết trước mắt mà chưa thể trông đợi vào
sự viện trợ của vốn nước ngoài. Cho đến nay, nhiều động thái cho thấy khu vực nông
nghiệp, nông thôn vẫn tiếp tục nằm “ngoài rìa làn sóng phát triển” của đất nước. Bởi lẽ đầu
tư cho nông nghiệp vừa nhỏ, vừa chắp vá, phân tán. Theo số liệu của Bộ Tài chính, trong 5
năm qua, tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn chỉ đạt trên 113 nghìn tỷ đồng,
chỉ chiếm 8,7% vốn đầu tư của cả nước và chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu của khu vực
này. Trong khi đó, làn sóng FDI đang ồ ạt đổ vào nền kinh tế nước ta hiện nay cũng “lãng
quên” khu vực này: tính đến 6/2007, khu vực nông nghiệp chỉ chiếm 10,12% số dự án còn
hiệu lực (758/7.490 dự án); số vốn đăng kí chỉ chiếm 5,62% (3,78 tỷ USD); vốn thực hiện
cũng chỉ chiếm 6,33% (gần 1.9 tỷ USD). Vì vậy đầu tư mạnh và đồng bộ vào nông nghiệp
là yêu cầu sống còn bây giờ và cả trong tương lai xa. Bởi nó sẽ đạt được cả 2 đích ngắm:
giảm sốt giá và tạo nền tảng phát triển vững chắc.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan
trọng của nguồn vốn nước ngoài. Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là
phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái
sản xuất xã hội. Vấn đề này đã được các nhà kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học
Mác-Lênin, các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “lí thuyết
tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, J.M.Keynes đã chứng minh rằng:
ĐẦU TƯ = TIẾT KIỆM.
Nhưng theo ông thì điều kiện cân bằng trên chỉ đúng trong trường hợp nền kinh tế đóng,
còn trong nền kinh tế mở ngày nay thì không phải lúc nào đẳng thức trên cũng được thiết
lập. Khi phần tích luỹ của nền kinh tế bằng hay lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước thì
lượng vốn đầu tư nước ngoài sẽ không cần thiết, thậm chí phần tĩch luỹ dư thừa kia còn
được đem đi đầu tư ra nước ngoài để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Ngược lại, khi nhu cầu đầu tư trong nước lớn hơn khả năng tích luỹ vốn thì cần có nguồn
vốn nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt cho nhu cầu đầu tư.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét