Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

doanh nghiệp phi tài chính, chức năng chủ yếu là cung cấp các sản phẩm, hàng
hố hay dịch vụ phi tài chính đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Qua
tiêu thức phân loại này Nhà nước có thêm căn cứ để hoạch định các chính sách
quản lý phù hợp với mỗi loại hình doanh nghiệp trong từng ngành nghề.
Thứ tư: dựa vào quy mơ kinh doanh người ta chia doanh nghiệp thành các loại
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ.
Việc quy định thế nào là doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ là tuỳ thuộc vào điều
kiện kinh tế xã hội cụ thể của từng nước và nó cũng thay đổi theo từng thời kỳ,
từng giai đoạn phát triển kinh tế. Tại nước ta, tiêu chí phân loại DNVVN đã
được quy định tạm thời tại cơng văn số 681/CP – KTN ngày 20/6/1998 của Thủ
tướng Chính phủ. Theo quy định tại cơng văn này, tiêu chí xác định DNVVN là
vốn và số lao động. Cụ thể là DNVVN là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ
đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.
Để khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc phát triển các DNVVN, ngày
23/11/2001 Chính phủ đã ra nghị định 90/2001/NĐ - CP. Trong đó quy định
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng ký khơng q 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bình hàng năm khơng q 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể
của ngành, địa phương trong q trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ
giúp có thể áp dụng linh hoạt đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một
trong hai chỉ tiêu trên.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Bảng 1: Tiêu chí xác định DNVVN ở một số quốc gia

Tên nước Số lao động
Tổng số vốn hoặc
giá trị tài sản
Nhật
< 50 trong bán lẻ
<100 trong bán bn
< 300 ngành khác
< 10 triệu n
< 30 triệu n
< 100 triệu n
Mỹ < 500
Thái Lan < 100 < 20 triệu bạt
Xin ga po < 100 < 499 triệu SD
Phi líp pin < 200 < 100 triệu pê-sơ
In đo nê xia < 100 < 0,6 tỉ ru-pi
Nguồn: Phát triển SME trong q trình cơng nghiệp hố ở Việt Nam và Kinh nghiệm phát
triển DNVVN ở Mỹ – Tạp chí NCKT năm 1999 và1995.

Một số đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ :
Doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại và phát triển ở mọi thành phần kinh tế. ở nước
ta, DNVVN chiếm 33,6% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi;
65,9% trong các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã; 94,6% cơng ty trách nhiệm
hữu hạn; 99,4% doanh nghiệp tư nhân; 65,9% doanh nghiệp Nhà nước và gần
100% doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nơng thơn là các DNVVN.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính năng động và linh hoạt cao trước những thay
đổi của thị trường, có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt
hàng nhanh vì vốn đầu tư ít và thu hồi vốn nhanh. Các DNVVN dễ phát huy bản
chất hợp tác, có thể duy trì tự do cạnh tranh và phát huy tiềm lực ở trong nước.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả.
Các quyết định quản lý được đưa ra và thực hiện nhanh chóng, khơng ách tắc và
tránh phiền hà nên có thể tiết kiệm tối đa chi phí quản lý DN.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh, hiệu quả
cao, tạo ra nhiều khả năng đầu tư của các cá nhân và mọi thành phần kinh tế.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Bên cạnh một số đặc điểm thể hiện những ưu diểm trên, DNVVN cũng còn
những đặc điểm bộc lộ mặt hạn chế như trang thiết bị cơng nghệ khơng bắt kịp
thời đại, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh còn thấp, khó khăn thâm nhập vào
thị trường thế giới, khu vực và mở rộng thị phần. Đặc biệt, một mặt hạn chế rất
đáng quan tâm của các DNVVN là khó khăn khi tiếp xúc với các kênh huy động
vốn. Với đặc trưng quy mơ kinh doanh là vừa và nhỏ, vốn điều lệ ban đầu thấp (
dưới 10 tỷ VNĐ ) nên khơng đáp ứng được nhu cầu vốn cho đầu tư. Nguồn tài
chính hạn hẹp, quy mơ lợi nhuận nhỏ bé dẫn đến tỷ lệ vốn từ lợi nhuận đạt được
khơng cao, tích tụ tập trung để tái sản xuất diễn ra chậm chạp. Với DNVVN, giá
trị tài sản thuần thấp ( tổng giá trị tài sản của DN sau khi trừ đi nợ phải trả ), uy
tín trên thương trường khơng cao, trình độ về lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng
như nhiều lĩnh vực có liên quan khác còn hạn chế, đa số là DNNQD khơng được
hưởng nhiều các ưu đãi, chính sách hỗ trợ của Chính phủ và Nhà nước nên các
nhà đầu tư coi đây là khu vực rủi ro cao, mang tâm lý e ngại dè dặt. Chính vì
vậy, DNVVN gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận các kênh huy động vốn trong nền
kinh tế.
1.1.1.2
Vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền đại cơng
nghiệp phát triển gắn với những cơng ty, tập đồn kinh tế lớn như ngày nay thì
sự khởi đầu của họ cũng là những xí nghiệp, cơng trường thủ cơng sản xuất nhỏ.
Trong q trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với q trình cạnh
tranh gay gắt giữa những xí nghiệp trong nước và ngồi nước đã tạo ra những
tập đồn kinh tế lớn như ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nước tư bản phát
triển, các DNVVN vẫn giữ một vị trí quan trọng và ngày càng được khẳng định.
Bởi vì nhiều lĩnh vực kinh tế chỉ có thể sản xuất kinh doanh có hiệu quả bởi các
DNVVN. Sau thời kỳ suy thối kinh tế những năm đầu thập niên 30, người ta
luận ra rằng khu vực DNVVN là nhân tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy và mở rộng
cạnh tranh, bảo đảm và ổn định kinh tế, phòng chống nguy cơ khủng hoảng.
Thật vậy, khu vực DNVVN là xương sống trong nền kinh tế của nhiều quốc gia
hiện tại và cả tương lai. Đặc biệt khi cuộc Cách mạng khoa học và cơng nghệ
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho các DNVVN nhiều cơ hội tập trung kỹ
thuật, có khả năng sản xuất các sản phẩm khơng thua kém các doanh nghiệp lớn.
Mặt khác xét trên phạm vi tồn cầu hiện nay về tính chất cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về chất lượng và
cơng nghệ. Trong điều kiện này, lợi thế của các doanh nghiệp có quy mơ lớn sẽ
bị giảm sút. Sự phát triển của chun mơn hố và hợp tác hố đã khơng cho
phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh một cách có
hiệu quả. Mà với mơ hình sản xuất kiểu vệ tinh, trong đó các DNVVN là vệ tinh
của doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp.
Như vậy, một nền kinh tế hiện đại thì DNVVN ngày càng khơng thể tan biến
trong các tập đồn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác để mở rộng lại ngày càng
tăng.
Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển, đang tiến tới một nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì DNVVN càng có ý nghĩa quan trọng.
Thể hiện cụ thể trên các mặt sau :
- DNVVN chiếm tỷ trọng cao về số lượng, thu hút nhiều lao động và đóng góp
phần lớn thu nhập quốc dân cho đất nước. Theo số liệu thống kê của các nhà
kinh tế, hiện nay DNVVN của nước ta chiếm trên 80% tổng số doanh nghiệp,
tạo cơng ăn việc làm cho khoảng 95% lao động xã hội. Như vậy, phát triển
DNVVN là chủ trương đúng đắn của Đảng, nó được gắn liền với đường lối phát
triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng theo định hướng kinh tế thị trường
nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập, góp phần vào ổn định tình hình kinh tế
xã hội.
- Các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thơng hàng hố và cung cấp
dịch vụ, có vai trò bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là xí nghiệp gia cơng vệ
tinh cho các doanh nghiệp lớn cùng hệ thống và là màng lưới tiêu thụ hàng hố
cho các doanh nghiệp lớn. Hiện DNVVN chiếm khoảng 31% tổng sản lượng
cơng nghiệp hàng năm, 78% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối
lượng vận chuyển hành khách và hàng hố.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
- Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiên dùng ngày càng phong
phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn khơng thể làm được, chế biến hàng hố
xuất khẩu và tăng kim ngạch xuất khẩu. Hệ thống siêu thị cũng khơng thể thay
thế được các cửa hàng bán lẻ, những nhà máy quy mơ lớn hiện đại khơng sản
xuất được những sản phẩm đơn chiếc. Bằng sự đa dạng ngành nghề, tính nhạy
cảm thị trường các DNVVN sẽ có nhiều thuận lợi trong sản xuất và cung cấp
dịch vụ, đáp ứng mọi sản phẩm và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Với lợi thế so
sánh về các ngun liệu nơng lâm thuỷ hải sản để sản xuất hàng hố xuất khẩu,
lợi thế về ngành nghề thủ cơng truyền thống đã tạo ra khả năng vơ cùng to lớn
cho khu vực DNVVN tham gia sản xuất, gia cơng chế biến, đại lý khai thác cho
xuất khẩu. Do DN lớn hạn chế về khu vực địa lý, phương pháp tổ chức sản xuất
và nếu muốn kinh doanh thường phải sử dụng các DNVVN làm vệ tinh thu mua
ngun liệu, chế biến, đóng gói
- Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương,
khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng sản xuất. Phát triển DNVVN sẽ
giúp các địa phương khai thác thế mạnh về đất đai, tài ngun, lao động trong
mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Từng địa phương cũng bị
giới hạn bởi ngân sách, khả năng tích tụ và tập trung vốn của DN tư nhân khơng
nhiều nên việc phát triển doanh nghiệp lớn là hạn chế. Chính vì vậy, Đảng và
Chính phủ ta đưa ra các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại ở vùng núi
phía Bắc, vùng cao ngun Nam trung bộ và phát huy các làng nghề truyền
thống.
Như vậy, có thể khẳng định vị trí và vai trò của các DNVVN, đồng thời việc
chú trọng phát triển các DNVVN là một trong những hướng chiến lược quan
trọng trong q trình cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước.



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Bảng 2: Đánh giá vai trò DNVVN ở Việt Nam

TT Vai trò Tỷ lệ ( % )
1 Góp phần tăng trưởng kinh tế 51,7
2 Tạo việc làm, tăng thu nhập 88,5
3 Tăng tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế 83,2
4 Tham gia đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam 63,2
Nguồn: Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam


1.1.2
Một số vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng
1.1.2.1
Khái niệm về tín dụng Ngân hàng

Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng
– Ngân hàng thợ vàng. Họ tiến hành mua bán, trao đổi ngoại tệ, bản tệ và thu lợi
nhuận từ chênh lệch giá. Những nhà bn tiền này cất trữ hộ nhiều người khác
là điều kiện thực hiện thanh tốn hộ cho các thương gia, lãnh chúa, địa chủ Do
tính chất vơ danh của tiền cùng với sự phân biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, tính
thời vụ trong sản xuất, mua bán sản phẩm thì tín dụng thương mại đã xuất hiện.
Đó là quan hệ tín dụng được hình thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hố. Nhờ
có tín dụng thương mại mà các doanh nghiệp khơng chỉ được đáp ứng nhu cầu
vốn mà còn tiêu thụ được hàng hố của mình. Song tín dụng thương mại chỉ có
thể thực hiện giữa những người có quan hệ giao dịch thường xun trong phạm
vi mua bán chịu hàng hố đã thực hiện, vốn cho vay là một bộ phận nằm trong
chu kỳ của người cho vay nên khơng thể kéo dài thời hạn. Nghĩa là tín dụng
thương mại bị hạn chế về phạm vi qui mơ, về thời hạn và chiều hướng của quan
hệ tín dụng.
Từ đó, tín dụng Ngân hàng đã ra đời nhằm khắc phục mặt hạn chế trên của tín
dụng thương mại. Tín dụng Ngân hàng là hoạt động tài trợ của Ngân hàng cho
khách hàng, là loại hình dịch vụ chủ yếu của Ngân hàng – tổ chức tài chính
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế. Tín dụng Ngân hàng là hình thức phát triển cao của tín dụng nói chung,
về bản chất vẫn là q trình chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật
của một tổ chức hay cá nhân này cho một tổ chức hay cá nhân khác sử dụng
trong một thời gian nhất định trên ngun tắc hồn trả. Song điểm khác biệt của
tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng ở đây là bằng tiền tệ giữa một bên là
Ngân hàng, một tổ chức chun kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, đóng cả vai
trò đi vay và cho vay với một bên là tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội.
Tín dụng Ngân hàng được hình thành trên cơ sở các nghiệp vụ tín dụng. Tín
dụng ngân hàng ngày càng phát triển mạnh, phạm vi hoạt động ngày càng rộng
và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thay thế tín dụng
thương mại. Nó ln phát huy được vai trò đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì và
mở rộng q trình tái sản xuất đồng thời được sử dụng như một cơng cụ tài trợ
cho những ngành kinh tế khác phát triển theo u cầu phát triển kinh tế của Nhà
nước.
1.1.2.2
Phân loại tín dụng Ngân hàng
 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng :
Chiết khấu thương phiếu : đây là nghiệp vụ đơn giản, khách hàng gửi thương
phiếu tới Ngân hàng xin chiết khấu, Ngân hàng kiểm tra chất lượng của thương
phiếu và tiến hành chiết khấu nghĩa là đưa tiền cho khách hàng và nắm giữ
thương phiếu. Số tiền này căn cứ vào lãi suất, thời hạn và lệ phí chiết khấu. Các
NHTM thường tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản.
Cho vay : bao gồm thấu chi, cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay
ln chuyển, cho vay trả góp. Có thể hiểu chung nhất cho vay là việc Ngân hàng
đưa tiền cho khách hàng với cam kết sẽ trả nợ gốc và lãi trong một thời gian xác
định. Thấu chi là nghiệp vụ mà Ngân hàng cho phép người vay chi vượt số dư
trong tài khoản tiền gửi thanh tốn của mình đến một giới hạn nhất định và trong
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
khoảng thời gian xác định. Cho vay trực tiếp từng lần thường áp dụng với khách
hàng có nhu cầu thời vụ, mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình phương
án dùng vốn vay. Ngân hàng xem xét và đưa ra qui mơ cho vay, thời hạn trả nợ,
lãi suất Cho vay theo hạn mức là Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng
hạn mức tín dụng - số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức được xác định dựa
vào kế hoạch SXKD của khách hàng, nhu cầu vốn và nhu cầu vay của họ. Cho
vay ln chuyển là dựa vào sự ln chuyển của hàng hố, DN khi khơng đủ vốn
mua hàng, Ngân hàng sẽ cho vay và thu nợ khi DN bán được hàng. Cho vay trả
góp thường áp dụng với món vay trung dài hạn, khách hàng được phép trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng.
Cho th: là việc Ngân hàng mua tài sản để cho khách hàng th theo thỏa
thuận cụ thể. Tài sản cho th thuộc sở hữu của Ngân hàng, Ngân hàng có thể
bán hay cho người khác th khi người th khơng trả nợ được. Cho th có hai
hình thức là cho th nghiệp vụ và cho th tài chính. Hoạt động cho th của
Ngân hàng chủ yếu là cho th tài chính, nó đáp ứng nhu cầu th trong thời
gian dài và người đi th có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng th.
 Phân loại theo tài sản đảm bảo:
Về ngun tắc mọi khoản tín dụng đều có đảm bảo nhưng với các khách hàng
uy tín, tài chính mạnh hay các món vay theo chỉ thị của Chính phủ thì khơng
cần tài sản đảm bảo. Có 2 nghiệp vụ đảm bảo là cầm cố và thế chấp. Cầm cố là
hình thức mà người vay phải chuyển quyền kiểm sốt tài sản đảm bảo sang cho
Ngân hàng trong thời gian xác định, thường là bằng thời gian nhận tài trợ. Thế
chấp là hình thức mà người vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở
hữu hay quyền sử dụng tài sản đảm bảo sang Ngân hàng nắm giữ trong thời gian
cam kết.
 Phân loại theo thời gian:
Do thời gian liên quan đến tính sinh lời và an tồn của tín dụng nên phân chia
theo thời gian là cần thiết. Tín dụng ngắn hạn là từ 12 tháng trở xuống và
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
thường tài trợ cho tài sản lưu động. Tín dụng trung hạn là từ 1 đến 5 năm,
thường tài trợ cho tài sản cố định. Tín dụng dài hạn là trên 5 năm, tài trợ cho các
cơng trình xây dựng như cầu, đường, máy móc thiết bị sử dụng lâu dài.
 Phân loại theo rủi ro :
Rủi ro nói chung là khả năng xảy ra tổn thất ngồi dự kiến. Còn rủi ro tín dụng
được hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải chịu do khách
hàng khơng trả, trả khơng đúng hạn hay khơng trả đủ vốn và lãi. Tín dụng gồm
các khoản có độ an tồn cao, khá, trung bình và thấp. Cách phân loại này giúp
Ngân hàng đánh giá được kịp thời các khoản tín dụng, giúp cho việc đánh giá
chất lượng tín dụng.
Ngồi ra, còn có thể xem xét nghiệp vụ tín dụng theo ngành kinh tế cơng
nghiệp, nơng nghiệp và dịch vụ; theo mục đích sử dụng khoản tài trợ là sản xuất,
tiêu dùng hay thương mại Quan hệ tín dụng được thiết lập giữa hai bên là Ngân
hàng và khách hàng, khách hàng là đối tác hết sức quan trọng trong hoạt động
tín dụng với Ngân hàng. Vì vậy, người ta cũng phân chia khách hàng thành DN
lớn, DN vừa và nhỏ, cá nhân hộ gia đình.
1.1.3
Tầm quan trọng của tín dụng tới doanh nghiệp vừa và nhỏ
Vốn kinh doanh là yếu tố tiền đề của mọi q trình đầu tư. Trong nền kinh tế
bao cấp với cơ chế kế hoạch hố tập trung đã khơng quan niệm vốn là hàng hố
đặc biệt vì vốn được rót từ ngân sách và Ngân hàng. Vốn đã khơng được sử
dụng hiệu quả do khơng có nơi giao dịch trên thị trường, điều đó đã làm mất đi
vai trò khách quan của nó trong sản xuất và đầu tư.
Có thể khái qt, vốn kinh doanh ( bao gồm vốn sử dụng cho sản xuất kinh
doanh và vốn đầu tư tài chính của doanh nghiệp ) là biểu hiện bằng tiền của
tồn bộ tài sản được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Đối với bất kỳ một DN nào, vốn cũng là yếu tố cơ bản khơng thể thiếu của
mọi quy trình SXKD. Nó là điều kiện để đổi mới thiết bị cơng nghệ, mở rộng
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
lao động từ đó tạo điều kiện để doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh trên thị
trường, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả SXKD. Tạo vốn được hiểu theo
nghĩa rộng là làm cho đồng tiền từ khâu dự trữ đi vào khâu lưu thơng trên cơ sơ
đảm bảo ngun tắc sinh lời. Khi thành lập cũng như trong q trình phát triển,
các DN phải xác định được nhu cầu vốn, cần xem xét có thể tạo vốn từ những
nguồn nào, dưới hình thức nào với chi phí vốn thấp nhất, từ đó để có thể bảo
đảm đầy đủ vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn. Đây là
vấn đề hết sức quan trọng và khó khăn đặc biệt với các DNVVN.
Căn cứ vào phạm vi huy động nguồn vốn mà DNVVN có khả năng huy động
thì có thể chia thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngồi DN. Nguồn
vốn bên trong thể hiện khả năng tự tài trợ của DN. Nguồn vốn bên trong bao
gồm vốn chủ sở hữu bỏ ra đầu tư ban đầu và một phần nguồn vốn từ chính hoạt
động của bản thân DN. Tuy nhiên DNVVN với đặc điểm vốn đầu tư ban đầu
thường ít, q trình tích tụ tập trung để tái sản xuất diễn ra chậm chạp nên nguồn
vốn bên trong này khơng đủ đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư, vượt q khả năng
vốn liếng của chủ DN. Điều đó đòi hỏi các DNVVN phải huy động tìm kiếm
nguồn vốn từ bên ngồi DN. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm nảy
sinh nhiều hình thức và phương pháp huy động vốn mới cho DN. Đó có thể là
vay vốn Ngân hàng, th tài chính, vay của bạn bè người thân hay đối tác, gọi
vốn liên doanh liên kết, phát hành chứng khốn hoặc thu hút vốn thơng qua sáp
nhập DN, cổ phần hố DN. Thị trường chứng khốn nước ta mới được thành lập
còn non trẻ và rất nhiều tồn tại cần khắc phục, nên DNVVN phát hành chứng
khốn khó đáp ứng các u cầu, thủ tục rườm rà và khả năng hiệu quả là thấp.
Liên doanh liên kết hay sáp nhập cần xem xét cân nhắc kỹ lưỡng, làm mất tính
chủ động của chủ DN cũng như hoạt động kinh doanh bị rằng buộc chặt chẽ.
Trong các DNVVN đặc biệt các DN tư nhân thường tạo nguồn vốn bằng cách đi
vay của bạn bè hay người thân, thị trường vốn “ chìm “. Tuy nhiên hình thức
này nhiều khả năng nảy sinh phức tạp mối quan hệ kinh doanh, quan hệ gia đình
xã hội, khơng ổn định cũng như chịu chi phí vốn cao.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét