Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

“Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế huyện Xuân Trường - tỉnh Nam Định đến năm 2015

Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn thể hiện khả năng nâng cao mức sống và
khả năng tích luỹ cho đầu tư mở rộng sản xuất. Tốc độ tăng trưởng tích cực,
nghĩa là tổng thu nhập của nền kinh tế cũng gia tăng tích cực, tương ứng là thu
nhập bình quân đầu người gia tăng, vì vậy mức sống của người dân cũng được
nâng lên theo đó. Thu nhập tăng nên các khoản tiết kiệm của nền kinh tế cũng
tăng, nâng cao khả năng tích luỹ, ảnh hưởng thuận lợi cho đầu tư mở rộng sản
xuất.
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế còn liên quan mật thiết đến nhiều mặt của tái
sản xuất xã hội như: sản lượng, việc làm, giá cả, lạm phát, sự biến đổi cơ cấu
kinh tế, tỷ giá cũng như quan hệ kinh tế đối ngoại,…
Ví dụ: tăng trưởng có mối quan hệ chặt chẽ với lạm phát
P AD AS: Tổng cung
AS AD: Tổng cầu
P
1
Y: Sản lượng
P
0
P: Giá cả
Y
Y
0
Y
1
- Hình 1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát-
Khi sản lượng tăng từ Y
0
lên Y
1
, giá cả tăng từ P
0
lên P
1
, là biểu hiện của
hiện tượng lạm phát.
1.1.2. Chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế - Liên hệ với kinh tế
huyện
1.1.2.1. Tổng giá trị sản xuất (GO – Gross output)
- Khái niệm: Tổng giá trị sản xuất (GO – Gross output) là tổng giá trị sản
phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia
trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
- Cách tính: có hai cách để xác định chỉ tiêu GO:
+ Cách thứ nhất: GO =

Doanh thu bán hàng các từ cách đơn vị, các
ngành trong nền kinh tế quốc dân.
+ Cách thứ hai: GO = IC – VA
(IC: Chi phí trung gian
VA: giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ)
* Trong phạm vi một huyện, giá trị sản xuất GO được tính bằng tổng giá
trị sản xuất của tất cả các ngành kinh tế quốc dân trong huyện.
GO của một huyện =

GO
i
(GO
i
: giá trị sản xuất của các ngành kinh
tế trong huyện).
Ở cấp huyện, việc tính chỉ tiêu GO gặp không ít khó khăn, đối với nhiều
ngành kinh tế, nhất là các ngành kinh tế dịch vụ, trong phạm vi một huyện rất
khó để trong việc thu thập số liệu. Đặc biệt một số lĩnh vực phải do cấp tỉnh
tính toán và phân bổ cho cấp huyện, thành phố hoặc huyện cần phải phối hợp
chặt chẽ với cấp trên để tính toán. Tuy vậy, giá trị sản xuất GO vẫn là chỉ tiêu
thiết thực trong tăng trưởng kinh tế của huyện, bởi muốn xác định tốc độ tăng
trưởng kinh tế của huyện cần dựa vào chỉ tiêu giá trị sản xuất GO này.
1.1.2.2. Tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP – Gross domestic product)
- Khái niệm: Tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP – Gross domestic
product) là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt
động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ
nhất định, thường là 1 năm.
- Cách tính:
+ Tính theo phương pháp sản xuất: GDP được xác định bằng tổng giá trị
gia tăng của tất cả các đơn vị sản xuất thường trú trong nền kinh tế.
VA =

(VA
i
) VA: Giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế.
VA
i
: Giá trị gia tăng của ngành i.
VA
i
= GO
i
– IC
i
GO
i
: Tổng giá trị sản xuất
IC
i
: Chi phí trung gian của ngành i
+ Tính theo phương pháp thu nhập: GDP được xác định trên cơ sở các
khoản hình thành thu nhập và phân phối thu nhập lần đầu.
Các khoản thu nhập được xác định vào GDP:
- Thu nhập của người có sức lao động dưới hình
thức tiền công và tiền lương (W)
- Thu nhập của người có đất cho thuê (R)
- Thu nhập của người có tiền cho vay (I
n
)
- Thu nhập của người có vốn (P
r
)
- Khấu hao vốn cố định (D
p)
)
- Thuế kinh doanh (T
i
)
GDP = W + R + I
n
+ P
r
+ D
P
+ T
I
+ Tính theo phương pháp chi tiêu: GDP là tổng chi tiêu dùng cuối cùng
của các hộ gia đình (C), chi tiêu của Chính phủ (G), đầu tư tích lũy tài sản (I) và
chi tiêu qua thương mại quốc tế, tức là giá trị kim ngạch xuất khẩu trừ kim
ngạch nhập khẩu (X-M).
GDP = W + R + I
n
+ P
r
+ D
p
+ T
t
* Trong phạm vi một huyện, giá trị gia tăng VA được tính bằng tổng giá
trị gia tăng của tất cả các ngành kinh tế quốc dân trong huyện.
VA một huyện =

VA
i
(VA
i
: Giá trị gia tăng của các ngành kinh tế
trong huyện)
Tổng sản phẩm hay tổng giá trị gia tăng của một huyện là chỉ tiêu kinh tế
tổng hợp, có thể coi đây là chỉ tiêu quan trọng nhất, thường dùng để đánh giá
tăng trưởng, cơ cấu kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả của đồng vốn, các cân
đối lớn của nền kinh tế huyện.
1.1.2.3. Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross national income)
- Khái niệm: Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross national income) là
tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một
nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cách tính: GNI bao gồm các khoản thu nhập và phân phối lại thu nhập,
đầu tư có tính đến cả các khoản nhận từ nước ngoài về và chuyển ra nước
ngoài.
GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
1.1.2.4. Thu nhập quốc dân (NI- National Income)
- Khái niệm: Thu nhập quốc dân (NI- National Income) là phần giá trị
sản phẩm vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất
định, thường là một năm.
- Cách tính:
NI = GNI - D
p
(G
p
: khấu hao vốn cố định của nền kinh tế)
1.1.2.5. Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI – National Disposable Income)
- Khái niệm: NDI – National Disposable Income phần thu nhập của quốc
gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần trong một thời kỳ nhất định,
thời là một năm.
- Cách tính:
NDI = NI + chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài.
1.1.2.6. Thu nhập bình quân đầu người (GNI/người)
Đây là chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế có tính đến ảnh hưởng
của sự thay đổi dân số, bởi nó được xác định như sau
GNI/người =
n
GNI
(GNI: tổng thu nhập quốc dân
n: dân số của địa phương đó)
Thu nhập bình quân đầu người là tiền đề thể hiện sự nâng cao mức sống
dân cư, và nó cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức sống của người dân.
Thông qua chỉ tiêu này, ta có thể so sánh mức sống dân cư giữa các quốc gia,
vùng, địa phương với nhau. Từ đó có rút ra được kết luận về chất lượng tăng
trưởng của nền kinh tế đó.
Vì vậy có thể khẳng định, chỉ tiêu này cũng thể hiện sự tăng trưởng bền
vững của nền kinh tế.
* Huyện là một đơn vị kinh tế nhỏ, sẽ hạn chế rất lớn về mặt thu thập số
liệu, do đó trên phạm vi của một huyện không sử dụng các chỉ tiêu tổng thu
nhập quốc dân GNI, thu nhập quốc dân sử dụng NI, GNI/người, bởi các chỉ tiêu
này có sự bao quát và đòi hỏi phải tính toán ở quy mô lớn. Do đó, ở phạm vi
kinh tế huyện, chỉ tiêu tổng sản phẩm trong vùng GDP được sử dụng để xác
định tổng thu nhập của huyện.
* Trong phạm vi một huyện, thu nhập bình quân đầu người được tính trên
theo giá trị GDP, nghĩa là:
GDP bình quân đầu người =
n
GDP
(GDP: GDP của huyện
N: dân số của huyện)
Thông thường, chỉ tiêu tổng thu nhập và chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu
người có tốc độ tăng trưởng khác nhau. Sự khác nhau này mang một ý nghĩa
kinh tế quan trọng. Sở dĩ có sự khác nhau giữa tốc độ tăng của hai chỉ tiêu này
là do sự thay đổi dân số của một huyện. Mà nguyên nhân của sự thay đổi dân số
là do thay đổi tự nhiên, thay đổi cơ học, di chuyển dân số, lao động giữa các
huyện, giữa các vùng,… Vì vậy, thông qua sự khác nhau giữa hai chỉ tiêu trên,
ta có thể đánh giá được sự di chuyển dân số cơ học của một huyện, từ đó có
những đánh giá nhất định về sự thay đổi về mặt cơ học của số lượng lao động
trong vùng.
Ngoài ra, trong phạm vi kinh tế của một huyện còn sử dụng chỉ sô thu
nhập bình quân trên một lao động
Thu nhập bình quân một lao động =
L
GDP
(L: số lao động tham gia
của huyện)
Thông qua chỉ tiêu thu nhập bình quân trên một lao động, ta có thể đánh
giá được năng suất lao động của huyện đó. Nhờ vậy, có thể biết được tính hiệu
quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của huyện cũng như trình độ, chất
lượng của nguồn lao động.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế - Liên hệ với kinh tế
một huyện
1.2.1. Nhân tố kinh tế
1.2.1.1. Các nhân tố tác động tới tổng cung
Y = F(K, L, R, T)
* Vốn (K): được xét ở giác độ vốn sản xuất
- Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện
trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và
vốn lưu động.
- Vốn sản xuất bao gồm: Công xưởng, nhà máy
Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng
Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải
Cơ sở hạ tầng
Tồn kho của tất cả các loại hàng hóa
- Tác động của vốn tới tăng trưởng kinh tế:
+ Vốn sản xuất là tiền đề cho các hoạt động sản xuất. Thật vậy, công
xưởng, nhà máy, cơ sở hạ tầng,… là yếu tố đầu vào đầu tiên và vô cùng quan
trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế.
+ Bên cạnh đó, vốn sản xuất còn phản ánh năng lực sản xuất của một
nền kinh tế. Thông qua chất lượng và trình độ hiện đại của vốn sản xuất, ta có
thể đánh giá năng lực sản xuất của một nền kinh tế là mạnh hay thiếu sức cạnh
tranh, từ đó có thể đưa ra kết luận về tăng trưởng kinh tế là nhanh, chậm, ổn
định hay không.
+ Hơn nữa, ta thấy vốn sản xuất tác động đến đến tăng trưởng kinh tế
theo chiều rộng, nghĩa là khi yếu tố vốn sản xuất được tăng cường cả về mặt số
lượng và chất lượng, thì nền kinh tế đó cũng có sự gia tăng sản lượng.
Ở các nước đang phát triển sự đóng góp của yếu tố vốn sản xuất vào
tăng trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất, tuy nhiên, hiện nay xu
hướng này đang giảm dần, bởi sự tác động đó đã dần được thay thế bằng các
yếu tố khác. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế trong phạm vi huyện, vốn sản xuất
vẫn đóng vai trò là yếu tố quan trọng với tăng trưởng kinh tế, vì vậy, khi đưa ra
các giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế huyện, giải pháp đầu tiên đưa ra là
giải pháp về huy động và sử dụng vốn.
* Lao động (L): được xét ở khía cạnh chất lượng và số lượng
Theo định nghĩa của giáo trình KTPT (Nhà xuất bản lao động – xã hội,
Hà Nội – 2005): Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo
quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao
động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Nguồn lao động được xét cả ở hai khía cạnh số lượng và chất lượng.
- Như vậy, ở khía cạnh số lượng, lao động được hiểu là số lượng nguồn
nhân lực tham gia vào quá trình sản xuất của nền kinh tế. Nguồn lao động về
mặt số lượng bao gồm:
+ Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm.
+ Dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất
nghiệp, đang đi học, làm công việc nội trợ trong gia đình, hoặc là những người
không có nhu cầu việc làm và những người thuộc tình trạng khác (nghỉ hưu
trước tuổi nhà nước quy định).
Các yếu tố tác động đến số lượng nguồn nhân lực: dân số, dân số đến
tuổi lao động, dân số có khả năng lao động, luồng di cư,… Các yếu tố này đều
có tác động làm tăng, giảm trực tiếp số lượng nguồn lao động. Vì vậy, các
chính sách về dân số, di cư cũng là các chính sách đối với nguồn lao động của
quốc gia hay địa phương đó.
Nguồn nhân lực dồi dào tác động trực tiếp làm gia tăng sản lượng của
nền kinh tế. Tuy nhiên trong xu thế hiện nay, dưới ảnh hưởng của các nhân tố
công nghệ cao, số lượng nguồn lao động không phải là yếu tố quyêt định tới
tăng trưởng kinh tế.
- Ở khía cạnh chất lượng nguồn lao động, ta xét đến các yếu tố sau
+ Sức khỏe người lao động: yếu tố này lại phụ thuộc vào các dịch vụ y
tế, chăm sóc sức khoẻ, môi trường sinh hoạt cũng như điều kiện dinh dưỡng,
+ Trình độ người lao động: trình độ người lao động được xét đến ở đây
không chỉ là trình độ văn hoá mà còn là trình độ chuyên môn, khả năng đáp ứng
nhu cầu đối với lao động kỹ thuật cao trong điều kiện hiện nay. Yếu tố này chịu
ảnh hưởng trực tiếp từ chất lượng của giáo dục. Giáo dục là cách thức để tăng
tích luỹ vốn con người cho nền kinh tế. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng
nguồn lao động, yêu cầu đặt ra là quan tâm đến công tác giáo dục của đất nước
hay địa phương.
+ Tác phong công nghiệp, tính kỷ luật của người lao động: các nhà kinh
tế đang ngày càng xem trọng yếu tố này. Vì thái độ của người lao động thể hiện
tính chuyên nghiệp của nền kinh tế, là yếu tố cần thiết và quan trọng để tăng
cường tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Chất lượng nguồn lao động còn được gọi là yếu tố vốn nhân lực, có vai
trò ngày càng nâng lên trong tỷ trọng tác động tới tăng trưởng kinh tế, làm gia
tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu việc làm, từ đó gia tăng sản lượng
của nền kinh tế. Các nước đang phát triển dần nhận thức được vị trí của yếu tố
vốn nhân lực. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong việc tăng năng suất sản lượng nền
kinh tế là nâng cao chất lượng nguồn lao động. Đây cũng là vấn đề đặt ra đối
với các khu vực kinh tế nhỏ như trên địa bàn một huyện, một địa phương.
Trên địa bàn kinh tế huyện, chất lượng nguồn lao động hay yếu tố vốn
nhân lực thưòng chưa cao, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình tăng trưỏng kinh
tế, đòi hỏi cần có các giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng nguồn vốn
nhân lực này.
* Tài nguyên, đất đai (R):
- Đất đai: luôn được xác định là yếu tố đầu vào không thể thiếu trong sản
xuất nông nghiệp, do đó đất đai đóng vai trò chủ chốt đối với kinh tế của các
nước đang phát triển vì ở các nước này, nông nghiệp thường chiếm một tỷ trọng
khá lớn trong GDP.
- Tài nguyên: là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Thật vậy, tài nguyên là một trong những yếu tố đầu vào tiên
quyết của nền sản xuất. Mặt khác, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển,
các nước đang phát triển thường dựa vào xuất khẩu tài nguyên để nâng cao khả
năng tích luỹ của minh, thúc đẩy sản xuất.
Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài nguyên, đất đai sẽ không
có sản xuất và cũng không có sự tăng trưởng, phát triển kinh tế. Vì thế, sử dụng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét