Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thẻ ATM tại Việt Nam

GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

Hiện nay với công nghệ tiên tiến, máy ATM không chỉ dùng để rút tiền mà
nó trở thành một ngân hàng thu nhỏ với đủ các chức năng và tiện ích: nạp tiền, rút
tiền trực tiếp, chuyển khoản đến tất cả các ngân hàng, thanh toán các hóa đơn, dịch
vụ, thuế, lệ phí…mua thẻ trả trước điện thoại di động, Internet…Ở Việt Nam
Ngân Hàng Đông Á EAB là Ngân hàng tiên phong trong lĩnh vực này.
Hệ thống ATM được lắp đặt ở hầu hết các Thành Phố, một số khách sạn, nhà
hàng, siêu thị, cửa hàng bách hóa lớn, kể cả các Trường Đại học và điều này sẽ
giúp cho người sử dụng có thể rút tiền ở nhiều nơi khi cần sử dụng.
Với tấm thẻ ATM trên tay, khách hàng vào bất cứ thời gian nào đều có thể
rút tiền, chuyển tiền…, việc chạy vội đến ngân hàng trước giờ đóng cửa dường
như đã lùi về quá khứ, bởi vì ATM hoạt động suốt 24 giờ trong ngày.
Việc sử dụng thẻ rất đơn giản và nhanh chóng. Khách hàng chỉ cần để thẻ
vào khe của máy ATM, sau đó chỉ cần nhập số PIN thì mọi thao tác sẽ được
hướng dẫn cụ thể trên màn hình máy tính. Chỉ trong vòng vài phút mệnh lệnh của
người sử dụng sẽ được thực hiện. Và họ có thể dễ dàng rút được số tiền mà mình
muốn.
Nhờ hình thức trả lương qua thẻ nhiều công nhân, người lao động nhập cư đã
có thói quen gửi tài khoản vừa có lãi vừa bảo đảm an toàn.
Một tiện ích khác là người sử dụng thẻ có thể cho người thân sử dụng tài
khoản qua thẻ phụ và có thể giới hạn mức chi tiêu của thẻ phụ để dễ kiểm soát.
1.1.4.2 Hạn Chế
Không chỉ than phiền về chất lượng giao dịch, gần đây số vụ khiếu nại mất
tiền từ thẻ rút tiền tự động (ATM) tăng dần với số tiền mất ngày càng lớn, mất đủ
kiểu, phiền đủ cách! Cho thấy các ngân hàng chưa thật sự tạo được an toàn cho
người sử dụng.
Tình trạng hết tiền ở nhiều máy ATM hay xảy ra, nhất là ngày thứ bảy và chủ
nhật, ngày chi trả lương cuối tháng và cũng là ngày khách hàng cần đi mua sắm.
Điều này sẽ làm cho người sử dụng rất phiền toái và khó khăn.
Việc quá tải mạng làm cho máy ATM chập chờn có lúc chạy chậm, điều này
gây nhiều bất tiện cho người sử dụng.
Trang 5
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

Người dân vẫn còn thói quen thích sử dụng tiền mặt, do đó thẻ ATM chưa
được sử dụng rộng khắp.
Hệ thống ATM đôi khi còn bị gián đoạn do các nguyên nhân chủ quan từ
ngân hàng, tức giải quyết công việc nội bộ cụ thể là cập nhật dữ liệu.
Chưa thể liên minh kết nối thành một hệ thống ATM trong cả nước. Nếu như
ở nước ngoài thì các máy ATM của các ngân hàng khác nhau đều có thể được kết
nối với nhau. Còn ở Việt Nam thì khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng nào thì
phải rút tiền ở máy ATM của ngân hàng đó.Gần đây có 1 số ngân hàng đã liên kết
lại với nhau nhưng số đó vẫn còn rất ít.
Vẫn còn tình trạng “thẻ nằm ngoài vùng phủ sóng” do còn quá ít máy và chủ
yếu là để rút tiền.
Tại Việt Nam khả năng phân biệt đồng tiền (theo mệnh giá) của máy ATM
đang bị đánh giá thấp. ATM trên thế giới đều được thiết kế với việc xác định
mệnh giá tiền đưa ra khi chi trả cho khách hàng qua các trang thiết bị cảm ứng về
độ dày, chiều rộng của tờ tiền. Tuy nhiên các mệnh giá tiền của Việt Nam hiện nay
được thiết kế và sản xuất tương đương nhau về kích cở, độ dày nên các chức năng
trên chưa phát huy đươc hiệu quả.
Trang 6
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH
THẺ CỦA CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN
QUA
2.2.1 Quy Mô Số Lượng Phát Hành Và Tốc Độ Tăng
Trưởng
Đến giữa năm 2004, chỉ có khoảng 11 NH tham gia thị trường phát hành và
thanh toán thẻ. Trong đó Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) dẫn
đầu do có hệ thống ATM lớn nhất khắp cả nước, tiếp sau là các Ngân hàng: Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), Ngân hàng Á Châu (ACB),
Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank), và Ngân hàng Đông Á (EAB).
Các ngân hàng chỉ mới trang bị được khoảng 450 máy ATM để phục vụ các giao
dịch của chủ thẻ. Từng ngân hàng cụ thể thì số máy này còn tệ hơn vì hệ thống
ATM của mỗi ngân hàng hoạt động riêng lẻ. Ngoại trừ Vietcombank với 280 máy
rải ra khắp cả nước, các ngân hàng còn lại mới chỉ trang bị từ dăm đến vài chục
máy. Đến cuối năm 2004, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ
tiền mặt trong lưu thông vẫn còn chiếm đến 20,35% tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế. Con số này đã giảm 1/3 so với cách đây một chục năm, nhưng
vẫn còn rất cao so với trình độ thế giới. Nói chung chiếc thẻ ATM vẫn chưa là vật
quen thuộc. Cho thấy đến cuối năm 2004 tình hình phát và sử dụng phương tiện
thanh toán không dùng tiền mặt-thẻ ATM tại Việt Nam vẫn chưa cao.
Đến năm 2005 quy mô và số lượng thẻ ATM được phát hành tăng lên đáng
kể. Chỉ trong 4 tháng đầu năm số lượng thẻ ATM phát hành tại Ngân hàng
Incombank đã là 50.000 thẻ với số lượng máy ATM là 135 máy. Ngân hàng
Agribank cũng đạt 50.000 thẻ đưa tổng số thẻ phát hành lên 150.000 trên tổng số
máy là 254 máy. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) đạt con số khiêm tốn hơn
với tổng số thẻ là 76.000 thẻ và gần 200 máy. Riêng Vietcombank số lượng thẻ
của Ngân hàng lên đến vài triệu thẻ và có đến 400 máy ATM, nếu tính đến các
máy ATM liên kết với một số ngân hàng khác (thẻ ATM của các ngân hàng liên
kết có thể sử dụng trên máy ATM của nhau) thì tổng số là 450 máy. Tuy nhiên vẫn
còn một số lượng lớn các điểm mua sắm có thể chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Số
máy ATM không lớn nhưng còn lại bị chia nhỏ ra cho nhiều ngân hàng và nhiều
Trang 7
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

địa phương. Ngay như ngân hàng Vietcombank có thị phần nhiều nhất nhưng chưa
đến 500 máy. Còn hệ thông kết nối VNBC (Vietnam Bank Card) chỉ có 178 máy
trên toàn quốc. Số lượng khách hàng tiềm năng lúc bấy giờ còn rất lớn với hơn
100.000 doanh nghiệp và hàng chục triệu hộ gia đình. Trong khi đó đến thời điểm
lúc này chỉ duy nhất Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn là có mạng
lưới chi nhánh đến một số xã. Mặt dù vây nhưng khi so sánh hai móc thời gian:
giữa năm 2004 và giữa năm 2005 ta thấy được tốc độ tăng trưởng của thị trường
thẻ ATM tại Việt Nam là rất lớn. Số lượng máy tăng hơn 2 lần, số lượng thẻ tăng
hơn 5 lần, mức tăng trưởng trên 200% một năm đã là rất cao. Ngoài ra những
tháng cuối năm 2005 người có thẻ ATM đa năng có thể giao dịch tại một số máy ở
Trung Quốc, Hong Kong, Thái Lan, Singapore, Philippines. Cho thấy thị trường
thẻ ngày càng mở rộng hơn cả trong lẫn ngoài nước.
Với đà tăng trưởng đó đến đầu năm 2006 loại thẻ được sử dụng nhiều nhất
tại Viêt Nam là thẻ ATM do nhiều ngân hàng phát hành. Cuối tháng 01 năm 2006
mức tăng trưởng của thị trường thẻ ATM đã trên 300%. Nếu như giữa năm 2005
trên toàn quốc chỉ có khoảng 1000 máy và gần 2 triệu thẻ thì đến thời điểm tháng
05/2006 cả hệ thống đã có gần 2000 máy và hơn 2,1 triệu thẻ ATM được đưa vào
sử dụng. Đến dây, liên minh thẻ Vietcombank (VCB) đã đạt gần 1 triệu thẻ và dự
kiến trong năm 2006 tăng lên 1,5 triệu thẻ. Còn hệ thống VNBC (Vietnam Bank
Card) của ngân hàng Đông Á thì với 400.000 thẻ, dự kiến đạt 1,2 triệu thẻ vào
cuối năm 2006. Đến thời điểm này đã có khoảng 20 thương hiệu thẻ khác nhau
được tung ra thị trường và cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng là vô cùng sôi
động.
Trong thời gian gần đây các ngân hàng đã ra sức mở thêm nhiều máy mới và
số lượng thẻ phát hành của các ngân hàng ngày càng tăng. Đặc biệt là ngân hàng
Nông Nghiệp đã liên kết các với các khu công nghiệp bằng việc trả lương cho
công nhân thông qua thẻ ATM từ đó số lượng thẻ và máy của ngân hàng này
không ngừng tăng lên đến nay ước tính ngân hàng Nông Nghiệp đã có khoảng 566
máy trên phạm vi toàn quốc với khoảng hơn 1 triệu thẻ được phát hành. Còn đối
với Vietcombank họ đã phát triển thẻ trong sinh viên bằng cách cho lắp đặt thêm
nhiều máy ATM ở các trường đại học và có nhiều chương trình phát hành thẻ
Trang 8
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

miễn phí cho sinh viên nhờ đó mà số lượng thẻ của Vietcombank đã phát triển rất
nhanh.
Tóm lại đối với những sản phẩm, dịch vụ đang có điều dễ dàng thấy nhất là
sự bùng nổ dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa (ATM). Trong vòng 3 năm trở lại đây, với
mức tăng trưởng trên cho thấy nhu cầu cũng như sự hưởng ứng nhiệt tình của
người tiêu dùng về dịch vụ ngân hàng hiện đại là rất cao. Số tài khoản và số máy
ATM được lắp đặt tăng lên nhanh chóng và đã tạo một “cơn sốt” thực sự.
Sau đây là các bảng thống kê về số lượng địa điểm đặt máy ATM của một số
Ngân hàng.
Bảng: Số lượng địa điểm đặt máy ATM của Ngân hàng Nông Nghiệp
(Agribank)
Khu vực Số lượng
An Giang 4
Bà Rịa Vũng Tàu 15
Bạc Liêu 3
Bắc Kạn 1
Bắc Giang 4
Bắc Ninh 4
Bến Tre 6
Bình Dương 24
Bình Định 3
Bình Phước 4
Bình Thuận 3
Cà Mau 4
Cao Bằng 2
Cần Thơ 14
Đà Nẳng 21
Trang 9
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

Đắc Lắk 6
Đắc Nông 3
Điện Biên 2
Đồng Nai 12
Đồng Tháp 2
Gia Lai 2
Hà Giang 2
Hà Nam 2
Hà Nội 134
Hà Tây 9
Hà Tĩnh 2
Hải Dương 2
Hải Phòng 14
Hậu Giang 2
Hòa Bình 1
Hưng Yên 2
Khánh Hòa 11
Kiên Giang 3
Kon Tum 2
Lai Châu 2
Lâm Đồng 10
Lạng Sơn 4
Lào Cai 4
Long An 3
Nam Định 3
Nghệ An 2
Trang 10
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

Ninh Bình 3
Ninh Thuận 3
Phú Thọ 2
Phú Yên 2
Quãng Bình 2
Quãng Nam 8
Quãng Ngãi 4
Quãng Ninh 9
Quãng Trị 4
Sóc Trăng 10
Sơn La 2
Tây Ninh 3
Thái Bình 1
Thái Nguyên 3
Thanh Hóa 4
Thừa Thiên Huế 10
Tiền Giang 3
Thành Phố Hồ Chí Minh 128
Trà Vinh 2
Tuyên Quang 2
Vĩnh Long 3
Vĩnh Phúc 3
Yên Bái 2
(Nguồn: tổng hợp số liệu từ trang web www.agribank.com.vn)
2.2.2 Chiến Lược Và Biện Pháp Mở Rộng Thị Trường
Trang 11
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

Để có tốc độ tăng trưởng như trên các ngân hàng đã không ngừng áp dụng
nhiều chiến lược mở rộng, các chiến lược là không thể thiếu đối với ngân hàng vì
hầu hết các ngân hàng đều có mục đích kinh doanh là mở rộng thị trường, tăng quy
mô thị phần chiếm lãnh.
Sau đây là một số chiến lược mà các ngân hàng đã áp dụng:
Từ năm 2004, Ngân hàng Thương Mại cổ phần Đông Á (EAB) đã áp dụng
hình thức trả lương qua thẻ. Nhờ vậy mà khá nhiều công nhân, người nhập cư đã
không còn giữ tiền mặt vừa không sinh lãi lại thiếu an toàn. Hơn nữa khi nhận
lương qua thẻ có giao dịch thường xuyên qua thẻ khách hàng có thể được xét hạn
mức thấu chi (tài khoản hết tiền vẫn có thể rút tiền hoặc thanh toán, hoàn trả sau).
Đầu năm 2005, cũng đã có hình thức cho vay giải ngân qua thẻ với lãi suất
khá thấp. Theo đó, ngân hàng và người vay làm các thủ tục vay vốn và chuyển
toàn bộ tiền vay qua tài khoản thẻ ATM. Ngoài tiểu thương ở các chợ thì một số
người còn vay để xây nhà cũng đã sử dụng cách giải ngân thông qua thẻ, cần tiền
đến đâu lấy đến đó.
Một chiến lựợc khác là mở ngân hàng trong các Trường Đại học. Nhu cầu sử
dụng thẻ của sinh viên theo học và cán bộ - công nhân viên là rất cao do đó chiến
lược này đã đem lại kết quả cao cho các ngân hàng.
Chiến lựợc giảm giá và thường xuyên có nhiều chương trình quà tặng cũng
đã và đang được các ngân hàng áp dụng và đã thu hút được nhiều người tham gia
sử dụng thẻ.
Và cũng trong năm 2005 thì thẻ ATM cũng đã được sử dụng ở nước ngoài.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã có kế hoạch chuyển toàn bộ các thẻ
từ ATM sang các thẻ thông minh (thẻ chip). Quyền lợi khách hàng của ngân hàng
sẻ được đảm bảo hơn khi sử dụng thẻ chip vì ngoài việc đảm bảo tiện ích như thẻ
chip còn có thể định danh người sử dụng, lưu trữ thông tin về các chương trình
khuyến mãi, thậm chí sức khỏe… đây là một xu thế tất yếu vì thẻ chip sẽ đáp ứng
được các yêu cầu của các tổ chức thẻ quốc tế.
Đến đầu tháng 2 năm 2006, Sở giao dịch hai Ngân hàng Công Thương đề ra
chiến lược sẻ cho vay tín chấp dùng vào mục đích sinh hoạt, tiêu dùng đối với
Trang 12
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

những khách hàng có thẻ ATM và trả lương qua thẻ. Mức vay tín chấp tối đa là 10
triệu. Điều này sẽ thu hút thêm một số lượng người sử dụng thẻ thanh toán.
Gần đây, 28/3/2006 Ngân hàng Đông Á – chi nhánh Đà Nẵng đã tổ chức
triển khai chương trình “mở thẻ ATM lấy ngay” tại hội chợ giao lưu kinh tế Việt –
Lào – Thái. Với chương trình khách hàng có thể dễ dàng đăng ký, sử dụng ngay
một chiếc thẻ đa năng EAB miễn phí và lấy ngay. Cũng tại thời điểm này, EAB
lắp đặt máy ATM hiện đại nhất Việt Nam vừa có trên thị trường. Khách hàng có
thể gửi tiền trực tiếp, rút tiền mặt, chuyển tiền, thanh toán dịch vụ, mua các loại
thẻ cào qua máy và một số chức năng khác. Và đó cũng là một biện pháp mở rộng
thị trường mà Ngân hàng đã sử dụng.
2.2.3 Liên Minh Thanh Toán Thẻ
Việc liên minh kết nối giữa các ngân hàng có ba cái lợi: thứ nhất là lợi cho
khách hàng do mạng lưới giao dịch được mở rộng, thứ hai khi “nhiều cây chụm
lại” sẽ tăng khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước với các ngân hàng
nước ngoài và tiết kiệm được chi phí đầu tư, thứ ba tạo điều kiện để người dân
giảm dùng tiềm mặt và thanh toán qua ngân hàng
Các ngân hàng có thể kết nối với nhau qua hai cách. Phương án thứ nhất là
lập công ty chuyển mạch quốc gia đã được Ngân hàng Nhà nước và các Ngân
hàng Ngoại thương quan tâm, tuy nhiên vẫn có ngân hàng chưa chịu tham gia vì
lý do chưa phù hợp về công nghệ. Còn phương án thứ hai là giữa các ngân hàng
tự thoả thuận, đối với phương án này dù được đánh giá là dễ thực hiện do các
ngân hàng tự quyết định nhưng thực tế chẳng suôn sẻ vì việc làm “nhánh” của
ngân hàng khác, đòi hỏi phải kết nối “hàng ngang”, không lệ thuộc vào nhau.
Dù được thành lập từ tháng 7/2004 nhưng mãi đến ngày 21/4/2007 Công ty
cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam (Banknetvn) đã khai trương hệ
thống chuyển mạch Banknetvn. Mặc dù chưa phải là hệ thống có số lượng ngân
hàng tham gia đông nhất ở thời điểm hiện tại, nhưng Banknetvn là hệ thống có sự
tham gia của 3 ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất Việt Nam: Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam và Ngân hàng
Thương mại cổ phần Sài Gòn công thương,và tương lai có thể có sự tham gia của
tất cả các ngân hàng thương mại của Việt Nam, mang lại lợi ích lớn cho khách
Trang 13
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

hàng dùng thẻ ở Việt Nam. Mục tiêu chính của Banknetvn là xây dựng hệ thống
chuyển mạch tài chính quốc gia kết nối các hệ thống thanh toán thẻ nói chung, hệ
thống ATM/POS nói riêng của các ngân hàng ở Việt Nam, xử lý thanh toán bù trừ
đối với các giao dịch thanh toán thẻ giữa các ngân hàng.
2.2.4 Ưu Điểm Của Thẻ ATM
2.2.4.1 Đối Với Người Sử Dụng
Có thể nói, trước khi thẻ ATM xuất hiện thì việc người dân có nhu cầu giao
dịch với ngân hàng đều phải đến trực tiếp các ngân hàng thương mại và phải đối
mặt với nhiều loại thủ tục phức tạp. Đôi khi còn gặp nhiều khó chịu do thái độ
phục vụ và ý thức của nhân viên ngân hàng. Hơn nữa việc giao dịch trực tiếp với
ngân hàng còn bị giới hạn về thời gian và không gian vì các ngân hàng chỉ làm
việc theo thời gian quy định. Đây là sự bất tiện trong giao dịch với khách hàng.
Tuy nhiên từ khi thẻ ATM xuất hiện đã góp phần giải quyết được tình trạng đó và
phục vụ tốt hơn nhu cầu giao dịch của ngân hàng.
* Rút tiền mặt: Khả năng đầu tiên và cơ bản nhất của thẻ ATM là giúp cho
người sử dụng có thể rút tiền mặt trong tài khoản của mình một cách dễ dàng và
nhanh chóng. Khi người chủ thẻ có nhu cầu rút tiền, họ chỉ cần mang thẻ ATM
đến bất cứ máy ATM nào gần nhất. Khách hàng chỉ việc ấn thẻ ATM vào máy,
bấm mã số và yêu cầu số tiền mình cần rút, mọi thao tác chỉ diễn ra trong vòng từ
30 giây đến 1 phút.
* Gửi tiền: Đây là dịch vụ mà ngân hàng Đông Á là ngân hàng đầu tiên trong
nước cho phép khách hàng của mình gửi tiền qua thẻ ATM mà không phải đến
trực tiếp ngân hàng. Đây là một tiện ích nhằm nâng cao giá trị sử dụng của thẻ
ATM đồng thời tạo được ưu thế cho thẻ ATM của ngân hàng trên thị trưòng thẻ
hiện nay
* Thanh toán các dịch vụ: Đây là một tiện ích góp phần phục vụ tốt hơn cuộc
sống của con người vì nó tiết kiệm được thời gian, công sức và chi phí cho người
sử dụng. Người sử dụng có thể trả các khoản chi phí dịch vụ của gia đình như:
điện, nước, điện thoại, phí internet, đóng bảo hiểm, thậm chí cả việc ủng hộ các
quỹ từ thiện bằng cách chuyển khoản qua chính thẻ ATM của mình. Điều này sẽ
giúp người dân thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt. Hiện nay các ngân hàng đang
Trang 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét