Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP Ở KON TUM


5
2.1.4 Nguồn lực lao động của nông hộ
* Số lượng lao động
Số lao động thường xuyên trong gia đình: 3 người, bao gồm vợ chồng ông Thịnh
và người con trai đầu.
Do hoạt động sản xuất nông nghiệp của gia đình ông Thịnh không nhiều và rải ra
suốt quanh năm cho nên, gia đình ông không thuê lao động thời vụ mà chỉ thuê 2 lao
động thường xuyên để làm việc trong dịch vụ xay xát gạo vào kinh doanh thức ăn gia súc
và đôi lúc phụ thêm các hoạt động sản xuất nông nghiệp như chăm sóc cà phê, vườn cây
ăn trái, thu hoạch cá…. Hai lao động này làm việc quanh năm với tiền công là 800.000-
900.000 đồng/người/tháng.
* Chất lượng lao động
Trong gia đình có 3 lao động chính, trong đó vọ chồng ông Thịnh là người lao
động thường xuyên nhất. Tuy hai vợ chồng vốn là giáo viên, nhưng họ đã chuyển sang
làm nghề nông từ nhiều năm trước (1995) cho nên đến nay có thể nói là họ đã rất quen
thuộc với các kỹ thuật lao động . Ngoài ra, do trình độ văn hoá tốt nên hai vợ chông ông
Thịnh đã tiếp thu rất tốt các kiến thức về sản xuất nông nghiệp chuyển giao trong các lớp
tập huấn thực hiện bởi tổ chức khuyến nông tỉnh. Đặc biệt là đối với hoạt động chăn nuôi
cá, ông Thịnh tự đánh giá là người rất am hiểu các kỹ thuật trong nghề và cho đến nay
hoạt động nuôi cá của ông chưa bao giờ bị lỗ do sản lượng giảm.
2.1.5 Tư liệu sản xuất hiện có của nông hộ
* Giá trị tư liệu sản xuất
Đối với những nông hộ có quy mô sản xuất hàng hoá cao, các tư liệu sản xuất có
vai trò rất quan trọng đối với kết quả sản xuất. Gia đình ông Thịnh đã có khá nhiều các
loại tư liệu sản xuất với giá trị cao để phục vụ cho các hoạt động sản xuất đa dạng. Điều
này thể hiện trình độ sản xuất khá cao của nông hộ
Bảng 2. Giá trị tư liệu sản xuất của nông hộ
Loại TLLĐ
ĐVT Số
lượng
Giá trị
Thời gian sử
dụng (năm)
Thời gian đã
sử dụng (năm)
Giá trị hiện còn
(1000đ)
1. Máy cày tay cái 01 22.000 12 6 11.000
2. Máy xay xát cái 02 40.000 10 2 32.000
3. Chuồng heo cái 01 20.000 15 5 13.000
4. Nhà kho cái 01 10.000 10 4 6.000
5. Lơn nái con 08 40.000 10 ??? 28.000
6. Kiến thiết cơ bản lô cà phê ha 2 36.000 50 2 34.000
7. Kiến thiết cơ bản vườn cây ha 1 20.000 30 4 17.000
Tổng
188.000 142.000
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2006 của tác giả
* Vốn vay
Tuy có mức đầu tư sản xuất khá cao nhưng cho đến nay ông Thịnh thường không
vay vốn từ bên ngoài cho sản xuất vì các hoạt động đầu tư đều diễn ra trong quá khứ khá
lâu và hiện nay ông đã trả xong cá khoản nợ cũ. Mặt khác các hoạt động sản xuất của ông

6
đều đã tạo thu nhập tốt. Theo ông Thịnh hiện nay việc tiếp cận tín dụng tại địa phương
không gặp vấn đề gì. Tuy nhiên, ông không vay chỉ vì ông không có nhu cầu mở rộng sản
xuất.
2.2 Hệ thống canh tác
Hộ gia đình ông Thịnh không có các hoạt động sản xuất tự cung tự cấp và khá đa
dạng kết hợp cả nông nghiệp và phi nông nghiệp như đã trình bày ở trên. Trong đó nuôi
cá nước ngọt không phải là hoạt động kinh tế nông nghiệp chính nhưng nó là hoạt động
ổn định nhất và nó đại diện cho một hoạt động kinh tế mới đang nổi lên tại huyện Đak
Ha, tỉnh Kon Tum đó là nuôi cá nước ngọt.
2.2.1 Đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động nuôi cá nước ngọt của nông hộ
Hoạt động nuôi cá nước ngọt là một hoạt động sản xuất có chu kỳ ngắn, trong
vòng 1 năm kể từ khi thả cá đến khi thu hoạch. Do đó, trong tính toán hiệu quả sản xuất
chỉ một phương pháp được áp dụng đó là phân tích ngân sách từng phần và sau đó một số
phân tích nhạy cảm sẽ được áp dụng để thấy sự biến động của hiệu quả sản xuất khi các
yếu tố đầu vào và đầu ra biến đổi.
a. Chi phí hoạt động sản xuất
• Chi phí cố định của hoạt động sản xuất bao gồm chi phí khấu hao kiến thiết cơ
bản và chi phí khấu hao của một số dụng cụ sản xuất bao gồm: 1 lưới kéo
giá trị 400.000 đồng sử dụng trong 4 năm, 2 giai giá trị 300.000 sử dụng
trong 3 năm
Chi phí kiến thiết cơ bản của ao cá:
- Đào ao (thuê máy và nhân công): 7.000.000 đồng
- Kè bờ tường: bao gồm 8.000.000 đồng mua gạch và 2.000.000 đồng cho chi phí
công xây dựng, tất cả là 10.000.000 đồng.
Như vậy tổng chi phí kiến thiết cơ bản là: 17.000.000 đồng. Thời gian sử dụng
của ao cá là rất khó có thể xác định. Theo ước tính của ông Thịnh, thời gian này có thể là
40-50 năm. Như vậy, tiền khấu hao hàng năm của kiến thiết cơ bản ao cá là: 17.000.000
đồng/ 45 năm = 378.000 đồng/năm.
Chi phí khấu hao của các dụng cụ (bao gồm lưới kéo và 02 giai) là: 100.000 +
100.000 = 200.000 đồng
Tổng chi phí cố định là: 578.000 đồng/năm
• Chi phí sản xuất cá:
- Giống: Ông Thịnh được cung cấp giống tận nhà thông qua một đại lý ở thị xã Kon
Tum. Chi phí cho giống cá thể được thể hiện ở bảng tính ở trang sau. Tổng chi phí cho
giống cá của gia đình là: 1.850.000 đồng/năm
Bảng 3. Chi phí cho giống cá
Loại cá
Số lượng
(con)
Đơn giá
(1000đ/ con)
Thành tiền
(1000đ)
Rô phi đơn tính 2000 0,3 600
Rô phi Đài Loan 1000 0,3 300
Trắm 1000 0,8 800
Chép 500 0,3 150
Tổng chi phí 1.850
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2006

7
- Xử lý ao: bao gồm các khoản chi cho phân, vôi, nạo vét bùn và diệt tạp. Việc xử lý ao
được tiến hành 1 lần/năm. Giá trị các khoản chi như sau: phân là 300.000 đồng, vôi là
250.000 đồng, nạo vét bùn và diệt tạp thường sử dụng 2 lao động gia đình và số tiền
công quy đổi theo mức tiền công thông thường của địa phương (30.000 đồng/ công) là
360.000 đồng. Tổng chi phí xử lý ao là 910.000 đồng/năm
- Thức ăn: Làm thức ăn cho cá có các loại sau: cỏ, cám viên (gạo, b
ột mỳ) và phân
chuồng. Mức cho ăn như sau:
Cỏ: 20 kg/ngày * 30 ngày/tháng * 10 tháng, tương đương với lượng giá trị là 1,2 triệu
đồng/năm
Cám viên: 5 kg/ngày * 30 ngày/tháng * 10 tháng, tương đương với lượng giá trị là 3
triệu đồng /năm
Phân chuồng (tận dụng từ nước rửa chuồng heo) có giá trị quy đổi là 500.000
đồng/năm
Tổng chi phí thức ăn là: 4.700.000 đồng/năm
- Thuốc: Không phát sinh chi phí
- Thú y: Ông Thịnh thường tự giải quyết các vấn đề
về bệnh cá vì ông đã có nhiều kinh
nghiệm, mặt khác môi trường nước ở đây sạch ít bị ô nhiễm như các địa phương
khác vì nước luân chuyển liên tục. Tuy nhiên, nếu quy đổi ra giá trị tiền thì nó
tương đương với 100.000 đồng/năm.
- Ngoài ra, trong sản xuất ông Thịnh còn có một chi phí về chài và vật dụng khác với
tổng chi phí là 350.000 đồng.
- Thu hoạch: Việc thu hoạch được các đối tượng thu mua tiến hành, và gia đình ông chỉ
đóng vai trò quan sát việc thu hoạch, cho nên nó không phát sinh chi phí.
Bảng 4. Tổng hợp chí sản xuất cá hàng năm
ĐVT: 1000 đồng
Khoản mục Tổng số tiền Ghi chú
1. Giống 1.850
2. Xử lý ao
Trong đó: Phân
Vôi
Nạo vét bùn và diệt tạp
910
300
250
360

3. Thức ăn 4.700
4. Thú y 100
5. Vật dụng nhỏ 350
6. Tổng chi phí sản xuất biến đổi 7.935
Nguồn: Điều tra thực tế năm 2006
Như vậy, tổng chi phí sản xuất hàng năm của ông Thịnh (bao gồm cả chi phí sản xuất
biến đổi lẫn chi phí cố định tức là chi phí khấu hao ở trên) cho hoạt động nuôi cá nước
ngọt là: 578.000 + 7.935.000 = 8.513.000 đồng
b. Doanh thu và hiệu quả sản xuất
• Doanh thu
Gia đình ông Thịnh bán cá ngay tại ao, hai đợt vào mỗi năm như đã đề cập đến

phần lịch thời vụ. Tổng doanh thu bán cá của gia đình ông được thể hiện ở bảng dưới:

8


Bảng 4. Tổng doanh thu bán cá
Loại cá Năng suất
(kg/sào)
Sản lượng
(kg)
Giá
(1000đ/kg)
Doanh thu
(1000 đ)
Tỷ lệ sống
(%)
Rô phi đơn tính 92 460 16 7.360 80%
Rô phi Đài Loan 28 140 15 2.100 70%
Trắm 100 500 16 8.000 40%
Chép 30 150 18 2.700 60%
Tổng cộng 20.160
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2006
Chú ý: Một sào tại Tây Nguyên tương đương với 1000 m
2

• Hiệu quả sản xuất: Tổng lợi nhuận của hoạt động nuôi cá: 20.160.000 –
8.513.000 = 11.647.000 đồng
Để nhìn nhận rõ hơn hiệu quả sản xuất của hoạt động nuôi cá nước ngọt, các chỉ
tiêu về giá hoà vốn và sản lượng hoà vốn cần được tính toán. Tuy nhiên, do ông Thịnh
nuôi 4 loại các khác nhau. Do đó, để thuận lợi cho việc tính toán giá và sản lượng hoà
vốn, 4 loại cá khác nhau này được coi như là một và khi đó tổng sản lượng là 1250 kg cá
và giá trung bình là 16.128 đồng /kg cá (đuợc tính theo công thức bình quân gia quyền
của các loại giá). Khi đó:
- Giá hoà vốn là: 6.550 đồng/kg cá
- Sản lượng hoà vốn là: 507,7 kg
Qua phân tích giá và sản lượng hoà vốn, có thể thấy hoạt động sản xuất nuôi cá
nước ngọt của gia đình ông Thịnh là khá an toàn và có thể là một phương hướng phát
triển sản xuất tốt của các hộ khác trong vùng. Tuy nhiên, hiện nay với tốc độ đang tăng
lên của nguồn cung các tại đây, có thể trong tương lai giá cả sẽ giảm và ảnh hưởng đến
hiệu quả sản xuất nhưng điều đó đòi hỏi một thời gian rất lâu nữa.
Với địa hình miền núi và tình hình khô hạn xảy ra khá thường xuyên, điều kiện
chung của cả vùng Tây Nguyên là không thích hợp với thuỷ sản, nhưng riêng địa bàn
huyện Đak Hà lại có nhiều ao hồ và gần thuỷ điện cho nên có thể nói đây là một lợi thế
trong phát triển kinh tế của địa phương. Hiện này Phòng Thuỷ sản mới được thành lập tại
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kon Tum. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm bước
đầu của chính quyền địa phương tới sự phát triển của ngành thuỷ sản.
2.2.2 Xác định thu nhập của nông hộ
Các hoạt động t
ạo ra thu nhập cho nông hộ là từ các nguồn: (1) Đại lý thức ăn gia
súc; (2) xay xát lúa gạo; (3) chăn nuôi heo và gà; (4) ao cá và tiền lương của các thành
viên trong hộ. Tổng doanh thu của hộ gia đình vào năm 2005 là 160.160.000 đồng, tổng
mức chi phí cho hoạt động sản xuất là 70.101.000 đồng và tổng mức chi cho sinh hoạt gia
đình là 50.400.000 đồng/năm. Như vậy tổng số thu nhập của hộ là 39.659.000 đồng trong
năm 2005. Đây là một mức thu nhập khá cao so với mức bình quân chung của các nông
hộ của Việt Nam, tuy nhiên nó chỉ ở mức trung bình khá so với các hộ khác ở xung
quanh. (Lưu ý: Tỷ lệ nghèo đói cao tại vùng Tây Nguyên tập trung chủ yếu vào các đôi
tượng người dân tộc). Những mức thu nhập cao tương tự như thế này thường chỉ xuất
hiện tại các vùng có tính chất sản xuất hàng hoá và chuyên canh cây công nghiệp như ở
Tây Nguyên. Những vùng sản xuất thuần nông khác rất khó có điều kiệ
n để làm ra một
mức thu nhập lớn như vậy.

9
Bảng 5. Tổng hợp các nguồn thu của nông hộ năm 2005
ĐVT: 1000 đồng
Ngành sản xuất Tổng thu Chi phí
Thu nhập
hỗn hợp
Tổng thu /
Tổng chi
1. Đại lý thức ăn gia súc 36.000 24.000 12.000 1,46
2. Xay xát lúa gạo 18.000 10.500 7.500 1,62
3. Chăn nuôi heo + gà 56.000 28.000 28.000 2
4. Ao cá 20.160 7.601 12.559 2,65
6. Tiền lương
30.000 0
30.000 -
Tổng thu nhập
160.160 70.101 90.059
-
Nguồn: - Số liệu điều tra năm 2006
- Tính toán của tác giả
Lưu ý:
- Những khoản chi phí cho sản xuất (chi phí trực tiếp) và thu nhập trên đều là các khoản
chi phí và thu nhập bằng tiền mặt hàng năm của hộ gia đình.
- Có thể tồn tại một khoản thu từ lãi suất của các khỏan tiền mà gia đình gửi vào ngân
hàng trong năm 2004. Tuy nhiên để thuận lợi hơn cho tính tóan khoản này không được
tính đến trong dòng thu ti
ền mặt của hộ ở trên.
Trong cơ cấu thu nhập của hộ, có thể thấy thu nhập của đem lại từ rất nhiều nguồn
khác nhau. Trong đó, hoạt động chăn nuôi lợn và gà và thu nhập từ tiền lương là hai
nguồn thu chủ yếu. Hoạt động chăn nuôi có điều kiện phát triển dễ dàng vì gia đình ông
Thịnh vừa làm đại lý thức ăn gia súc vừa làm xay xát gạo nên nguồn thức ăn cho heo và
gà luôn đầy đủ. Ao cá là hoạt động kinh tế sớm nhất của hộ nhưng hiện nay đang đem
lại nguồn thu không phải là lớn nhất. Tuy nhiên nếu so sánh hiệu quả trên một đồng chi
phí thì hoạt động nuôi các vẫn là hoạt động có mức hiệu quả cao nhất. .
Để xem xét kỹ hơn dòng tiền (cash flow) của hộ, chúng tôi đã phân tích các khoản
thu chi tiền mặt của hộ phân bố theo các tháng trong năm 2005 qua bảng 6. Trong phân
tích dòng tiền chúng tôi giả định là số tiền luỹ kế chuyền từ năm 2004 của hộ gia đình
sang năm 2005 là bằng 0. Tuy nhiên trong thực tế số tiền luỹ kế này có thể là khác
không.
Qua phân tích dòng tiền có thể thấy hộ gia đình ông Thịnh có thu nhập quanh năm
do có các nguồn thu nhập từ lương, đại lý thức ăn gia súc, xay xát gạo và chăn nuôi heo
và gà luôn ổn định. Nhìn chung là gia đình ông Thịnh có thu nhập khá cao và không
gặp khó khăn gì nhi
ều về phương diện dòng tiền. Một đặc điểm khác của dòng tiền thể
hiện người chủ phản ứng rất tích cực đối với tình hình tài chính là rất ít khi ông để tiền
nhàn rỗi trong nhà nhiều mà liên tục gửi vào ngân hàng. Điều đó cũng có thể cho biết
khả năng tiếp cận đến dịch vụ ngân hàng của hộ gia đình là rất tốt.

10
Bảng 6. Dòng tiền của hộ năm 2005. (ĐVT: 1000đ)
Tháng Dòng thu Dòng chi cho sx Dòng chi cho td Tổng chi
Gửi NH
Lũy kế
1 11.667 5.841 6.207 12.048

-381
2 11.667 5.841 5.207 11.048

238
3 11.667 5.841 3.207 9.048

2.857
4 13.467 5.841 3.207 9.048
8.000
7.276
5 11.667 5.841 3.207 9.048

1.895
6 11.667 5.841 4.207 10.048

3.514
7 11.667 5.841 3.207 9.048

6.133
8 11.667 5.841 4.207 10.048
5.000
7.752
9 11.667 5.841 4.207 10.048

4.371
10 19.027 5.841 4.207 10.048
10.000
13.350
11 22.667 5.841 4.207 10.048
12.000
15.969
12 11.667 5.841 5.207 11.048

4.588
Tổng cộng 160.164 70.092 50.484 120.576


Nguồn: - Kết quả điều tra năm 2006
- Tính toán của tác giả với giả định tiền lũy kế chuyển từ năm 2004 sang năm
2005 là bằng 0. - Giả định dòng chi
2.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất của nông hộ
2.3.1 Dự kiến sản phẩm thay thế
Như phần trên đã chỉ rõ, gia đình ông Thịnh đang có một khoản thu hập tương đối
tốt từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ông Thịnh đã nhận ra tính hiệu quả của hoạt động
nuôi cá và ông có ý định mở rộng quy mô sản xuất, tuy nhiên hiện nay giá đất đang quá
cao (đặc biệt là chỗ gia đình ông ở là thuộc thị xã Kon Tum) cho nên khó có thể mở rộng
được. Mặt khác, bản thân người chủ hộ không đặt nặng vấn đề tạo thêm nhiều thu nhập
cho nên có thể nói xu hướng mở rộng sản xuất của hộ gia đình là không rõ ràng và chắc
chắn. Có thể nói trong tương lai, ông Thịnh vẫn giữ cơ cấu sản xuất kết hợp cả dịch vụ
phi nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp như hiện nay.
Một hướng phát triển được ông Thịnh ưa thích đó là kinh doanh thêm dịch vụ câu
cá phục vụ các đối tượng tiêu dùng ở thị xã Kon Tum ra. Tuy nhiên việc này đòi hỏi đầu
tư thêm nhiều vố
n để chỉnh trang lại hồ, xây dựng các chòi câu trong khi doanh thu
đem lại là chưa rõ ràng nên ông Thịnh vẫn chưa có quyết định chắc chắn.
2.3.2 Xác định tính khả thi của phương án mới
Phương án sản xuất mới của ông Thịnh là một dự án đầu tư quy mô lớn đối với
một nông hộ. Một vấn đề rất khó khăn trong việc xác định tính khả thi của phương án
mới đó là dự báo lượng cầu về dịch vụ câu cá giải trí này ở Kon Tum. Hiện nay, đã có
một vài hộ tiến hành hoạt động dịch vụ này và trong đó có hộ lãi cũng như hộ bị lỗ (theo
nhận xét của ông Thịnh). Do đó, việc xác định tính khả thi của phương án mới còn đòi
hỏi phải biết được sự khác biệt giữa sản phẩm dịch vụ của ông Thịnh và các sản phẩm
tương tự trong vùng.
II. PHÂN TÍCH CHUỖI CUNG THỊ TRƯỜNG CỦA SẢN PHẨM CÁ
1. Giới thiệu
- Lý do tiến hành phân tích chuỗi cung: Sản phẩm cá nước ngọt đang có xu hướng
phát triển mạnh tại vùng này. Tuy nhiên, đây là một thị trường mới nên có thể xảy ra một
số vấn đề gay bất lợi cho người dân.

11
- Mục đích phân tích chuỗi cung: xác định các tính chất của chuỗi cung, các khó
khăn trong chuỗi và ảnh hưởng của chúng đến tình hình sản xuất của người nông dân.
2. Phương pháp nghiên cứu chuỗi cung
- Sản phẩm được chọn để phân tích chuỗi cung là các loại các nước ngọt được
nuôi phổ biến ở đây là rô phi đơn tính, rô phi Đài Loan, trắm và cá chép.
- Chuỗi được phân tích là từ người nông dân đến người tiêu dùng cuối cùng. Tuy
nhiên do hạn chế của điều tra, thông tin chi tiết chỉ có ở các cấp từ người nông dân đến
các người thu gom tại địa phương.
- Người được phỏng vấn:
+ Ông Thịnh (người sản xuất) cung cấp thông tin chính về chuỗi cung về sản
phẩm của gia đình anh
+ Anh Tá (người thu gom lớn tại thị trấn Dak Ha) bổ sung thông tin về hoạt động
của các đối tượng khác tham gia và chuỗi cung.
3. Mô tả chuỗi cung sản phẩm cá
Sơ đồ 2. Chuỗi cung sản phẩm cá

Các chợ ở tỉnh
Kon Tum
Đầu mỗi cung cấp giống
ở Đồng Tháp
Đầu mỗi cung cấp giống
ở Cần Thơ
Anh Tá (người trung gian
lớn nhất trong vùng)
Các đại lý bán các giống tại địa phương
Người nuôi cá
Anh Tá
Các chợ tỉnh
Đắklắc

Các chợ ở
Gia Lai

Người thu
gom khác

Người thu
gom khác


12
Chuỗi cung của sản phẩm cá nước ngọt tại Kon Tum là khá dài. Hiện nay, hầu hết
các đại lý bán cá giống tại tỉnh này chưa thể cho cá đẻ, nên phần lớn cá giống được nhập
về từ các đầu mối ở các tỉnh miền Tây Nam bộ như Cần Thơ, Đồng Tháp. Để vươn tới thị
trường cung cấp cá giống ở xa đòi hỏi các đại lý bán cá giống phải có một lượ
ng vốn lớn,
kinh nghiệm buôn bán hàng thuỷ sản tốt và rất nhiều mối quan hệ. Tại huyện Đak Hà,
một đại lý đang thực hiện việc này và chi phối hoạt động của tất cả các địa lý bán cá
giống còn lại. Đó là đại lý của anh Tá.
Sau khi nhập cá giống về, anh Tá thường nuôi cho đến khi đến khi đạt loại cá
hương. Cá hương được chuyển một phần cho các đại lý bán cá giống, từ đó những người
này bán tiếp cho người nuôi cá, hoặc anh Tá chuyển trực tiếp đến với người dân. Đối với
người nuôi cá cũng ra làm hai loại cá những hộ chỉ chuyên nuôi từ cá hương lên cá quẹt
ga hay những người nuôi từ các hương, cá quẹt ga lên cá thịt. Sau khi người nuôi cá đã có
cá thịt để đưa ra thị trường, các đối tượng trung gian (trong đó có nhiều người chính là
các đại lý bán cá giống) sẽ thu mua tại ao và đưa đi đến rất nhiều thị trường trong tỉnh
cũng như ngoài tỉnh. Những người nuôi các thường có thói quen xác định một người
cung cấp cá giống ổn định cho mình chứ không thường xuyên thay đổi.
Theo lời ông Thịnh, chênh lệch giá cá bán tại ao và tại chợ Kon Tum là khoảng
2500-30000 đồng/kg và chênh lệch giữa giá các tại ao và giá tại các thị trường xa như
Đắklắc, Gia Lai có thể là 4.000-4.500 đồng/kg cá. Theo ông đó là mức lãi chấp nhận
được vì việc vận chuyển
đi đòi hỏi chi phí khá lớn.
Hiện nay, thị trường cuối cùng chủ yếu của sản phẩm cá nước ngọt là các chợ
trong tỉnh Kon Tum. Tuy nhiên theo anh Tá - người trung gian lớn nhất vùng - thị trường
cá nước ngọt ở Gia Lai và Đắklắc cũng có xu hướng phát triển mạnh.
4. Phân tích hoạt động chuỗi cung
• Môi trường kinh doanh:
Vùng Tây Nguyên nói chung là không thuận lợi cho việc phát triển thuỷ sản vì
đây là đại bàn miền núi. Tuy nhiên, huyện Đắk Hà nói riêng lại đang có lợi thế phát triển
sản phẩm các nước ngọt vì nó có nhiều ao hồ, gần thuỷ điện Đakuy và yếu tố thời tiết
thuận lợi. Do đó, có thể thấy lượng cầu về sản phẩm này là rất lớn trong khi cung còn
tương đối nhỏ. Do đó, đây là một thuận lợi lớn để phát triển nhanh sản xuất. Tuy nhiên
do việc phát triển nghề nuôi cá nước ngọt này còn sơ khai nên các vấn đề về bóc lột
thông qua thị trường có thể xảy ra. Điều đó thể hiện qua sự tồn tại của một đối tượng
trung gian rất lớn đang kiểm soát thị trường cá tại huyện đó là anh Tá. Tuy nhiên trong
tương lai điều này có thể thay đổi khi ngày càng có nhiều người tham gia vào thị trường
thuỷ sản.
• Tính định hướng thị trường:
Trong chuỗ
i cung sản phẩm cá nêu trên, định hướng thị trường của các đối tượng
tham gia là rõ ràng vì hầu như tất cả sản phẩm của họ đều hướng tới việc phục vụ cho thị
trường chứ không dành cho việc tự tiêu dùng. Tuy nhiên, do việc được bao tiêu sản phẩm
và hạn chế về thông tin thị trường, nên người nông dân thường ra các quyết định sản xuất
của họ như lựa chọn giống cá, thời điểm thu hoạch dựa trên sự tư vấn các các đối
tượng trung gian.
• Tính ổn định và hợp tác của chuỗi
Tính ổn định của chuỗi cung cá là khá tốt vì ông Thịnh đã có hoạt động kinh tế
này từ rất lâu và người cung cấp các giống kiêm người bao tiêu sản phẩm của ông vẫn
không phải thay đổi. Điều này cũng đúng với phần lớn các nông dân khác khi họ có
ngườ
i cung cấp và ngươi bao tiêu ổn định. Sự hợp tác giữa các đối tượng này là chặt chẽ,
điều đó được thể hiện ở việc người đại lý thường hay cung cấp tín dụng cho người nuôi.

13
• Các vấn đề về vận chuyển, bảo quản sản phẩm (logistic) và thông tin
Dòng thông tin trong chuỗi là khá đơn giản. Đầu mối thông tin thị trường cung
cấp cá giống và thị trường tiêu dùng cuối cùng ở tỉnh xa là ở chỗ anh Tá. Người nuôi cá
thường được bao tiêu sản phẩm và họ cảm thấy giá bán là phù hợp nên họ rất ít quan tâm
tới giá cả thị trường. Phương tiện cất trữ, vận chuyển, bảo qu
ản sản phẩm của các đối
tượng thu gom nhỏ thường đơn giản như xe máy, sọt Nhưng đối với các người trung
gian lớn như anh Tá thì phương tiện khá hiện đại bao gồm ô tô, bể chứa cá, thùng đá để
đảm bảo có thể vận chuyển cá đến các thị trường xa mà không gặp vấn đề gì.
• Trưởng chuỗi
Giữa người nuôi cá và các địa lý bán cá giống thường có mối quan hệ mật thiết
thông qua các hoạt động cung cấp tín dụng và bao tiêu sản phẩm. Tuy nhiên những quan
hệ này không thể hiện bằng văn bản mà chỉ được thoả thuận ngầm với nhau. Trong chuỗi
cung các người đại lý bán cá giống tham gia nhiều trong việc cung cấp giống lẫn tiêu thụ
đầu ra nên họ có ảnh hưởng mạnh đến toàn chuỗi. Trong số những người này có thể nói
anh Tá là người trưởng chuỗi vì anh nắm gần toàn bộ nguồn cá giống đưa từ các tỉnh xa
về và có nhiều đầu mối tiêu thụ ở thị trường xa.
Vai trò trưởng chuỗi này thể hiện rõ nhất ở việc anh Tá là người quyết định đưa
loại cá giống gì về, số lượng bao nhiêu, thời điểm nào và anh cũng là người dặt giá mua
chuẩn cho người nuôi mà các đối tượng khác sẽ lấy đó làm căn cứ để đưa mức gái của
mình
• Những thuận lợi và khó khăn của chuỗi
Hiện nay, đối với chuỗi cung cá một ưu điểm rất nổi bật đó là lượng cầu về sản
phẩm cá là khá lớn tại các tỉnh Tây Nguyên. Do đó, giá cá trong những năm qua luôn ổn
định và xu hướng tăng dần lên. Điều này tạo ra tâm lý ổn định cho người nuôi và các đối
tượng trung gian dễ dàng đứng ra để đảm bảo khâu bao tiêu sản phẩm. Đây là một điểm
thuận lợi cho người dân vì cá là sản phẩm tươi sống, khó bảo quản cho nên vai trò của
người trung gian là rất quan trọng.
Tuy nhiên, khó khăn đến với chuỗi là do thị trường mới có xu hướng phát triển
gần đây. Vai trò của người trưởng chuỗi (anh Tá) là quá lớn trong việc cung cấp cá giống
lẫn tiêu thụ đầu ra cho nên có thể dẫn đến hiện tượng anh ta có các hành vi bóc lột thông
qua quyền lực thị trường.



II. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Hộ gia đình ông Thịnh được xếp vào loại khá ở trong phường. Hoạt động kinh tế
của hộ được kết hợp giữa sản xuất và kinh doanh. Trong đó, chăn nuôi là hoạt động kinh
tế chính của gia đình. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ có thể tận dụng các
điều kiện thuận lợi xung quanh như nguồn thức ăn dồi dào (cỏ, phân, cám ). Các hoạt
động sản xuất đa dạng đã làm giảm mức độ rủi ro trong sản xuất kinh doanh của hộ
nhiều.
Những thuận lợi chủ yếu của nông hộ đó là các tư liệu sản xuất đầy đủ, cơ sở hạ
tầng như đường sá, phương tiện vận chuyển phát triển tốt, trình độ văn hoá cao cho nên
có thể nắm bắt các vấn đề về kỹ thuật sản xuất một cách nhanh chóng Nhu cầu thị
trường đối với các sản phẩm nông nghiệp chính (lợn, gà, cá) đang có xu hướng tăng lên
và những sản phẩm này có tiềm năng phát triển trong lâu dài. Hiện nay, theo đánh giá của
chủ hộ việc mua các yếu tố đầu vào và bán các sản phẩm đầu ra của người nông dân

14
không gặp khó khăn gì lớn (trừ vấn đề độc quyền thị trường của một số đối tượng trung
gian mà người dân không nhận thức được có thể xảy ra).
Những khó khăn cơ bản của nông hộ là thiếu đất đai để mở rộng sản xuất vì giá
đất hiện nay rất cao. Mặt khác, ông Thịnh đang tiến hành sản xuất theo kinh nghiệm là
chủ yếu và ông rất cần các kiến thức về kinh doanh nông nghiệp đặc biệt là kỹ năng phân
tích hiệu quả kỹ thuật sản xuất. Để từ đó ông có thể đưa ra lựa chọn phát triển sản xuất
khác nhau.
Hiện nay ông Thịnh cảm thấy hài lòng với hoạt động sản xuất của mình và ông
cũng chưa thể tìm ra hoạt động sản xuất nào đạt hiệu quả cao hơn hiện tại. Do đó, ph
ương
hướng sản xuất trong tương lai là chưa có sự đột biến. .
KIẾN NGHỊ
- Đối với nông hộ:
+ Cân nhắc việc mở rộng thêm quy mô nuôi cá nước ngọt vì đây là hoạt động
mang lại hiệu quả thu nhập/chi phí cao nhất trong các hoạt động kinh tế của hộ.
+ Cần nâng cao năng lực về kiến thức kinh doanh để từ đó có thể xác định hiệu
quả của các ph
ương án kinh doanh có thể có như làm dịch vụ câu cá, chuyển một phần
diện tích vườn cây ăn trái sang nuôi cá hay mua thêm đất mở rộng diện tích nuôi.
- Đối với địa phương:
+ Địa phương cần có phương hướng và biện pháp thúc đẩy phát triển nghề nuôi
các nước ngọt để tận dụng lợi thế cạnh tranh của mình. Để phát triển hoạt động này, vấn
đề cần quan tâm hàng đầu là cải thiện khâu cung cấp cá giống cho nông dân. Hiện nay,
một đại lý duy nhất là anh Tá đang thực hiện khâu cung cấp giống này và có thể cá giống
được cung cấp với giá cao.
+ Tổ chức các lớp tập huấn về kinh doanh nông nghiệp, trong đó cần chú trọng
nhấn mạnh đến kỹ năng phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và những phân tích nhạy
cảm khi các yếu tố sản xuất thay đổi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét