Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
những quy luật của nền kinh tế thị trờng mà còn bị chi phối bởi định hớng xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác, các doanh nghiệp ở Việt Nam vừa phải
đáp ứng đợc yêu cầu tăng trởng kinh tế, vừa phải đáp ứng đợc những mục tiêu mà
xã hội đặt ra cũng nh yêu cầu về phát triển bền vững.
Dới góc độ pháp lý, khái niệm Doanh nghiệp đợc pháp luật nhìn nhận với
những đặc trng riêng. Theo Luật công ty năm 1990 thì doanh nghiệp đợc định
nghĩa nh là một đơn vị kinh doanh đợc thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực
hiện các hoạt động kinh doanh. Khái niệm này có nội hàm khá rộng. Theo đó, tất
cả những đơn vị kinh doanh có hoạt động kinh doanh sẽ đợc công nhận là doanh
nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm trong Luật công ty năm 1990 cha thể hiện đợc
những đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp. Đến khi Luật doanh nghiệp năm 1999
và Luật doanh nghiệp năm 2005 đợc ban hành, các nhà làm luật đã đa ra khái
niệm doanh nghiệp một cách cụ thể và đầy đủ hơn: Doanh nghiệp là một tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đợc đăng kí kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Nh vậy, theo định nghĩa này, doanh nghiệp có những đặc trng pháp lý sau đây:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một loại chủ thể pháp luật. Có thể nói, việc pháp
luật công nhận hay không công nhận t cách chủ thể pháp luật cho tổ chức, cá nhân
có ý nghĩa vô cùng to lớn. Đó là cơ sở để tổ chức, cá nhân đó tiến hành mọi hoạt
động nhân danh mình, đồng thời đợc pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Với ý nghĩa tơng tự nh vậy, t cách chủ thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp cho
phép doanh nghiệp có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc tổ chức và
hoạt động. Trớc đây, pháp luật về doanh nghiệp đã công nhận t cách chủ thể của
doanh nghiệp nhà nớc, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh
nghiệp t nhân, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài. Sau
này, khi thống nhất các loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2005,
pháp luật chỉ công nhận t cách chủ thể cho bốn loại hình doanh nghiệp: công ty
TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp t nhân. Dù thuộc bất kỳ
thành phần kinh tế nào thì khi thành lập doanh nghiệp, các nhà đầu t cũng chỉ đợc
thành lập một trong bốn loại hình doanh nghiệp đó. Kết quả là, khái niệm doanh
nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
đã đợc thay thế bằng những khái niệm chính xác hơn nh doanh nghiệp có vốn
nhà nớc, hay doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài. Đây là tên gọi chung cho
các doanh nghiệp đợc tổ chức theo một trong bốn hình thức nêu trên mà nhà nớc
hoặc tổ chức, cá nhân nớc ngoài bỏ vốn thành lập.
Bên cạnh đó, khi nói đến doanh nghiệp, có một loại chủ thể luôn đợc đề cập
đến với hai quan điểm khác nhau về bản chất và t cách chủ thể - đó chính là hợp
tác xã.
Quan điểm thứ nhất cho rằng Hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp.
Quan điểm này giải thích lý do là: Hợp tác xã có tổ chức rõ ràng, có bộ máy điều
hành gồm Hội đồng xã viên, Ban quản trị Hợp tác xã, Ban kiểm soát; đồng thời
cũng có quy định về góp vốn và cơ chế huy động vốn tơng tự nh doanh nghiệp. Vì
vậy, hợp tác xã phải là một loại hình doanh nghiệp đợc điều chỉnh bằng luật riêng
Luật hợp tác xã, cũng giống nh doanh nghiệp nhà nớc đợc quy định trong
Luật doanh nghiệp Nhà nớc năm 2003; công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty
hợp danh, doanh nghiệp t nhân đợc quy định trong Luật doanh nghiệp năm 1999
hay doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài đợc quy định
trong Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, quan điểm thứ hai cho rằng hợp tác xã không phải là một loại
hình doanh nghiệp. Hợp tác xã có những nét tơng đồng với doanh nghiệp là vì
Hợp tác xã hoạt động nh một loại hình doanh nghiệp. Nhng điểm khác nhau cơ
bản giữa hợp tác xã và doanh nghiệp chính là yếu tố tự nguyện trong việc tham gia
hay rút khỏi hợp tác xã và tính xã hội, tơng trợ cộng đồng rất cao của xã viên.
Trong công ty, những điều kiện ràng buộc giữa các thành viên công ty TNHH,
công ty cổ phần, công ty hợp danh với nhau và giữa các thành viên với công ty liên
quan đến việc chuyển nhợng phần vốn góp hay cổ phần bao giờ cũng phức tạp hơn
so với các trờng hợp tơng tự trong hợp tác xã. Đồng thời, không giống nh doanh
nghiệp chỉ hoạt động trớc hết và chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận, Hợp tác xã còn
luôn hớng đến việc phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên, cùng giúp nhau
thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Mặc dù tồn tại với những lý lẽ khá thuyết phục, quan điểm thứ nhất về t
cách doanh nghiệp của hợp tác xã cũng không đợc ghi nhận trong luật. Hiện nay,
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Luật doanh nghiệp năm 2005 đã thống nhất các loại hình doanh nghiệp, không
bao gồm hình thức hợp tác xã. Điều này có nghĩa là hợp tác xã sẽ vẫn hoạt động
theo những quy định trong Luật Hợp tác xã năm 2003 và không phải là chủ thể
của pháp luật doanh nghiệp, không chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về
doanh nghiệp.
Thứ hai, để đợc công nhận t cách chủ thể pháp lý, doanh nghiệp phải đợc
thành lập và đăng kí kinh doanh theo thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Đây
là một đặc điểm rất quan trọng bởi lẽ nó thể hiện thái độ của nhà nớc đối với các
tổ chức kinh tế, xác định tổ chức ấy có đủ hay không đủ điều kiện đợc công nhận
(bằng giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh) là một doanh nghiệp. Dới góc độ pháp
lý, các doanh nghiệp buộc phải đăng kí kinh doanh trớc khi tham gia thị trờng bởi lẽ,
đây là hoạt động có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối
với hoạt động quản lý nhà nớc và môi trờng kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp,
đăng kí kinh doanh nhằm xác định t cách chủ thể cho doanh nghiệp. Kể từ thời điểm
đợc cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, doanh nghiệp đợc phép tiến hành
những hoạt động kinh doanh theo nội dung đã đăng kí. Hoạt động kinh doanh đó sẽ
đợc pháp luật bảo vệ nhằm chống lại những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc đăng kí kinh doanh sẽ giúp nhà nớc nắm
bắt đợc hệ thống thông tin về số lợng doanh nghiệp, số lợng mỗi loại hình doanh
nghiệp, các ngành nghề kinh doanh chủ yếu, địa bàn thu hút vốn đầu t để từ đó đ a
ra, sửa đổi hoặc bổ sung kịp thời chủ trơng chính sách nhằm hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp. Hơn nữa, việc đăng kí kinh doanh sẽ tạo ra một môi trờng cạnh tranh
an toàn và minh bạch khi các nhà đầu t dễ dàng tìm hiểu thông tin về bạn hàng từ
sổ đăng kí kinh doanh. Việc đăng kí kinh doanh vì thế mà có thể giúp các doanh
nghiệp tránh đợc tình trạng lừa đảo bằng việc bng bít thông tin hay cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động kinh doanh vốn đã có rất nhiều rủi ro. Trên thực
tế, hoạt động đăng kí kinh doanh thể hiện thái độ của nhà nớc đối với các thành
phần kinh tế. Trớc đây, khi pháp luật về doanh nghiệp còn phân loại các doanh
nghiệp theo tiêu chí tính chất sở hữu, việc đăng kí kinh doanh đợc quy định trong
nhiều văn bản khác nhau. Hiện nay, theo xu hớng chung đảm bảo sự bình đẳng
cho các thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo hơn nữa quyền tự do kinh doanh
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
của công dân, các quy định về đăng kí kinh doanh đã đợc thống nhất trong Luật
doanh nghiệp năm 2005, áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp.
Điều này tạo thuận lợi và dễ dàng cho các nhà đầu t khi áp dụng những quy định
đó. Trong bối cảnh nền thơng mại thế giới hiện nay, Việt Nam cũng nh các quốc
gia khác, luôn luôn đề cao việc cải thiện môi trờng đầu t mà trong đó quan trọng
nhất là cải thiện thủ tục hành chính ở khâu đăng kí kinh doanh nhằm khuyến khích
đầu t trong nớc đồng thời thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài.
Thứ ba, mỗi doanh nghiệp đều đợc xác định bởi những ngành nghề kinh
doanh nhất định. Một doanh nghiệp sẽ phải kinh doanh đúng ngành nghề mà mình
đã đăng kí một cách thờng xuyên nh một nghề nghiệp. Nếu một chủ thể nào đó
thực hiện hành vi kinh doanh có tính chất đơn lẻ, vụ việc thì không thể xem chủ
thể đó là doanh nghiệp. Hơn nữa, thậm chí khi một chủ thể đã đợc coi là một
doanh nghiệp (đợc cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh) mà không hoạt
động tại trụ sở đăng kí trong thời hạn 6 tháng liên tục kể từ ngày đợc cấp Giấy
chứng nhận đăng kí kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính (Khoản d
Điều 165 Luật doanh nghiệp năm 2005) thì sẽ bị xoá tên trong sổ đăng kí kinh
doanh. Quy định này thực sự là một công cụ hiệu quả giúp cho cơ quan quản lý
nhà nớc dễ dàng nắm bắt thông tin về doanh nghiệp, đồng thời tránh tình trạng
doanh nghiệp chỉ đăng kí kinh doanh mà trên thực tế không tiến hành hoạt động
hoặc ngừng hoạt động trong một thời gian dài.
Trên đây là một số vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm doanh nghiệp đợc
nhìn nhận một cách tổng quát từ phơng diện kinh tế xã hội và phơng diện pháp
lý. Có thể nói, những đặc trng đợc chỉ ra ở trên sẽ là nền tảng, là cơ sở khoa học
cho pháp luật về doanh nghiệp đợc ban hành và hoàn thiện trong điều kiện Việt
Nam hiện nay.
1.2. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp
Pháp luật là một chỉnh thể thống nhất, ra đời và phát triển gắn liền với sự
xuất hiện của nhà nớc và tiến bộ xã hội. Hệ thống pháp luật có sự thay đổi về nội
dung, cơ cấu, luôn vận động từ thấp đến cao, ngày càng đa dạng và phong phú.
Trong sự vận động của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về doanh nghiệp,
một bộ phận cơ bản của pháp luật Việt Nam cũng có những bớc phát triển nhất
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
định. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn cha có định nghĩa thống nhất về lĩnh vực pháp
luật này. Về mặt lý luận, có thể xem xét pháp luật về doanh nghiệp dới hai góc độ:
theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm những quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động
của các doanh nghiệp. Những quan hệ xã hội này có phạm vi rất rộng, phát sinh từ
khi nhà đầu t đăng ký kinh doanh, chính thức hoạt động trên thị trờng cho đến khi
doanh nghiệp kết thúc hoạt động. Những quan hệ đó bao gồm: quan hệ giữa nhà n-
ớc và nhà đầu t trong quá trình đăng kí kinh doanh; quan hệ giữa doanh nghiệp với
các thành viên; quan hệ giữa các thành viên với nhau; quan hệ giữa doanh nghiệp
với các chủ thể trong quá trình sử dụng đất, tài chính, bảo vệ môi trờng, thuê lao
động hay quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ nợ trong quá trình doanh nghiệp
tiến hành giải thể, phá sản. Những quan hệ này rất đa dạng và khác nhau về tính
chất, nội dung cũng nh thành phần chủ thể. Nh vậy, có thể định nghĩa pháp luật về
doanh nghiệp theo nghĩa rộng nh sau: Pháp luật về doanh nghiệp là những quy tắc
xử sự do nhà nớc ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tổ chức và tiến hành hoạt động của các doanh nghiệp. Theo
đó, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm cả những quy phạm điều chỉnh quan hệ xã
hội thuộc các ngành pháp luật khác nhau nh: Luật dân sự (phần về sở hữu), Luật
môi trờng, Luật đất đai, Luật thuế, Luật lao động
Theo nghĩa hẹp, pháp luật về doanh nghiệp là những quy tắc xử sự do nhà
nớc ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong khi
doanh nghiệp gia nhập thị trờng, quản trị nội bộ và rút khỏi thị trờng. Theo nghĩa
này, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm:
- Quy định về bản chất pháp lý của các loại hình doanh nghiệp;
- Quy định về thành lập doanh nghiệp và đăng kí kinh doanh;
- Quy định về tổ chức quản lý doanh nghiệp;
- Quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp;
- Quy định về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp.
Nh vậy, pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận của pháp luật kinh tế, có
mối quan hệ mật thiết với những ngành luật khác nh Luật dân sự, Luật thuế - tài
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
chính, thơng mại. Điều đó có nghĩa là Pháp luật có nhiệm vụ chủ yếu thiết lập sự
bình đẳng về pháp lý trong quá trình tồn tại, hoạt động của các doanh nghiệp sau
khi đã thành là những văn bản nằm ngoài hệ thống pháp luật về doanh nghiệp [4].
Trong luận văn này, khái niệm pháp luật về doanh nghiệp đợc tiếp cận theo
nghĩa hẹp. Việc phân biệt đối tợng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của pháp luật
về doanh nghiệp theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp có ý nghĩa nhất định trong việc
nghiên cứu về pháp luật. Tuy nhiên, sự phân biệt ấy cũng chỉ có tính chất tơng đối
bởi lẽ pháp luật về doanh nghiệp, dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, vẫn luôn
bao gồm những bộ phận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
2. Khái niệm và yêu cầu về tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp
2.1. Khái niệm tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp
Về lý thuyết, hệ thống pháp luật phải luôn có tính thống nhất, đồng bộ, đợc
sắp xếp theo trình tự hiệu lực. Song trên thực tế, những quy định pháp luật không
phải lúc nào cũng đồng nhất, đôi khi vẫn mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau. Xem
xét tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam, trong khoa học
pháp lý thờng có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng phải ban hành một đạo luật là Luật doanh
nghiệp chung mới có thể thống nhất đợc những quy phạm rời rạc, tản mạn quy
định trong rất nhiều văn bản khác nhau. Đạo luật đó sẽ có những quy định chung
cho các loại hình doanh nghiệp nh doanh nghiệp nhà nớc trong Luật doanh nghiệp
nhà nớc năm 2003, Hợp tác xã trong Luật Hợp tác xã năm 2003, các loại hình
doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp năm 1999, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài trong Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam. Những ngời theo quan điểm này đa
ra căn cứ cho luận điểm của mình là: một bộ luật chung sẽ tạo đợc một môi trờng
pháp lý chung để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đợc đối xử bình
đẳng trớc pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng không nhất thiết phải ban hành một đạo luật
chung mà phải tiến hành rà soát lại, sửa đổi, bổ sung sao cho có sự thống nhất thực
sự về mặt nội dung của các quy phạm pháp luật về doanh nghiệp. Việc ban hành
một đạo luật chung chỉ là vấn đề về mặt kĩ thuật lập pháp. Nói cách khác, tính
thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp không phụ thuộc vào số lợng văn bản
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
pháp luật. Biểu hiện của sự thống nhất là các quy phạm pháp luật không trùng lặp,
không mâu thuẫn khi quy định về cùng một nội dung. Đồng thời, các quy định
pháp lý đó phải đợc áp dụng chung, dựa vào loại hình của doanh nghiệp mà không
phân biệt theo tính chất, thành phần sở hữu. Ví dụ nh khi một cá nhân, một tổ
chức hay nhà nớc muốn thành lập công ty TNHH một thành viên thì phải đợc áp
dụng cùng một thủ tục thành lập doanh nghiệp hay phải có bộ máy quản trị tơng tự
nhau. Nh vậy, quan điểm này cho rằng không cần thiết phải ban hành một đạo luật
áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp bởi vì, Về kĩ thuật lập pháp,
khó có thể phản ánh đợc hết những đặc trng pháp lý và quản lý của mọi loại hình
doanh nghiệp trong một đạo luật. Bởi lẽ suy cho cùng, những luật về từng loại
hình doanh nghiệp nhìn chung đều mang tính tổ chức, vì vậy, chúng phải thể hiện
những đặc tính cá biệt về tổ chức và quản lý của từng loại hình doanh nghiệp đó
[Trang 46 - 3].
Nh vậy, xét về cả mặt lý luận lẫn thực tiễn, quan điểm thứ hai đợc xem là
đúng đắn và lôgic hơn khi nêu bật đợc bản chất của tính thống nhất pháp luật về
doanh nghiệp biểu hiện ở những quy phạm pháp luật không mâu thuẫn, chồng
chéo lên nhau. Hơn nữa, tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp còn thể
hiện ở sự hài hoà với pháp luật quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia rất nhiều
hiệp định song phơng và đa phơng nhng trên thực tế, nhiều quy định của pháp luật
Việt Nam cha phù hợp với những quy định trong các hiệp định đó. Trong tơng lai,
Việt Nam cần phải sửa đổi những quy định trên để tạo sự thống nhất thực sự trong
pháp luật về doanh nghiệp.
2.2. Sự cần thiết của tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp
Yêu cầu thống nhất luôn đặt ra với tất cả các lĩnh vực pháp luật, ngành luật
trong hệ thống pháp luật của bất kì quốc gia nào. Đó là đòi hỏi của thực tế khách
quan và đòi hỏi này càng cấp thiết hơn khi Việt Nam đang trên con đờng hớng tới
hội nhập toàn cầu. Việc thống nhất pháp luật là yêu cầu khách quan bởi sự mâu
thuẫn, không tơng thích của hệ thống pháp luật sẽ tất yếu phải bị thay thế bằng
những qui phạm mới thích hợp hơn. Một trong những lợi ích lớn nhất có đợc từ sự
thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp là đảm bảo đợc yêu cầu quản lí nhà nớc
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
về doanh nghiệp, một nội dung của quản lý nhà nớc về kinh tế. Quản lí nhà nớc về
kinh tế chính là sự tác động của hệ thống quản lí hay chủ thể quản lí - nhà nớc lên
hệ thống bị quản lí hay khách thể quản lí - nền kinh tế nhằm hớng sự vận hành
của nền kinh tế theo mục tiêu đã đặt ra [trang 15 - 10]. Trong nền kinh tế quan
liêu bao cấp, nhà nớc thực hiện việc hoạch định chính sách đối với các khu vực
kinh tế khác nhau. Do đó, để quản lí các doanh nghiệp, nhà nớc đã chia các loại
hình doanh nghiệp theo tiêu chí sở hữu: doanh nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp dân
doanh. Song, khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng, việc phân chia ấy không còn
thích hợp nữa. Quản lí nhà nớc lúc này chỉ là việc thực hiện các biện pháp vĩ mô,
nhà nớc không can thiệp vào các hoạt động kinh doanh, trao quyền tự chủ cho các
doanh nghiệp. Do đó, một yêu cầu tất yếu đặt ra là phải bỏ đi những đặc quyền
của doanh nghiệp nhà nớc, tất cả các loại hình doanh nghiệp phải đợc thống nhất
điều chỉnh, không phân biệt thành phần sở hữu. Sự thay đổi ấy là tất yếu để có đợc
một hệ thống pháp luật thống nhất, hiệu quả hơn.
Không chỉ là yêu cầu khách quan, sự thống nhất của pháp luật về doanh
nghiệp còn xuất phát từ nhu cầu nội tại khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức
thơng mại thế giới WTO. Một trong những yêu cầu tiên quyết của tổ chức này với
hệ thống pháp luật của các nớc thành viên là sự thống nhất và minh bạch. Nếu
Việt Nam cha thống nhất đợc pháp luật để đảm bảo tốt hơn sự bình đẳng giữa các
nhà đầu t trong nớc và nhà đầu t nớc ngoài có nghĩa là Việt Nam cha thực hiện đợc
nguyên tắc đối xử quốc gia NT, nguyên tắc cơ bản của WTO. Nguyên tắc
này đảm bảo rằng những sản phẩm nớc ngoài và đôi khi nhà cung cấp những sản
phẩm đó đợc đối xử trong thị trờng nội địa không kém thuận lợi hơn các sản phẩm
nội địa hoặc các nhà cung cấp các sản phẩm đó [Tr 174 - 8]. Tuy nhiên, trong
pháp luật về doanh nghiệp trớc đây lại có những quy định tạo ra địa vị pháp lí cha
bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nớc và doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
Ví dụ nh trong khi thủ tục và điều kiện gia nhập thị trờng của doanh nghiệp trong
nớc đợc quy định khá đơn giản và thuận lợi thì doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài phải xin cấp giấy phép đầu t với rất nhiều công đoạn, tốn nhiều công sức và
chi phí mà hiệu quả lại cha cao. Hơn nữa, theo luật đầu t nớc ngoài, doanh nghiệp
có vốn đầu t nớc ngoài chỉ đợc tổ chức dới hình thức công ty TNHH. Đây đợc coi
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
là một hạn chế lớn, một rào cản các nhà đầu t khi muốn thành lập doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, khi doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã đợc thành lập thì cơ cấu
tổ chức nội bộ của những doanh nghiệp xét về hình thức pháp lí là giống nhau nh
công ty nhà nớc, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài do một tổ chức là chủ sở hữu
và công ty TNHH một thành viên, hoặc doanh nghiệp liên doanh và công ty
TNHH hai thành viên trở lên, lại không đồng nhất. Kết quả là các nhà đầu t nớc
ngoài không muốn đầu t vào thị trờng Việt Nam bởi chính những rào cản do pháp
luật tạo ra.
Nhu cầu thống nhất pháp luật không chỉ là đòi hỏi của các nhà đầu t nớc
ngoài mà còn là đòi hỏi của toàn bộ nền kinh tế trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn
đầu t trực tiếp nớc ngoài. Việt Nam đã có Luật ban hành văn bản qui phạm pháp
luật, đó sẽ là cơ sở để ban hành những văn bản pháp luật đợc sắp xếp một cách hệ
thống, khoa học và theo đúng trình tự hiệu lực.
3. ý nghĩa của việc thống nhất pháp luật về doanh nghiệp
Nếu nh các doanh nghiệp đã góp một phần không nhỏ cho sự tăng trởng
kinh tế của Việt Nam trong những năm vừa qua thì pháp luật về doanh nghiệp
chính là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Do đó, xét về cả mặt lý luận
lẫn thực tiễn, sự thống nhất pháp luật về doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng to lớn,
biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, pháp luật về doanh nghiệp đã thể chế đúng đờng lối của Hiến
pháp 1992: đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. (Điều 16, Điều 22).
Về mặt lý luận, Hiến pháp là văn bản có hiệu lực cao nhất của nớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam nên theo quy định, những văn bản luật và dới luật không
phù hợp với quy định của Hiến pháp sẽ không thể có hiệu lực pháp luật. Tuy
nhiên, trên thực tế ở Việt Nam vẫn tồn tại rất nhiều văn bản pháp luật cha thực sự
đảm bảo yêu cầu bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Thống nhất pháp luật vì thế sẽ tạo điều kiện cho những văn bản
pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp phù hợp hơn với quy
định của Hiến pháp và có hiệu lực pháp luật ở cả mặt lý luận và thực tiễn.
Thứ hai, hệ thống pháp luật thống nhất về doanh nghiệp sẽ tạo đợc sự tin t-
ởng của các nhà đầu t nớc ngoài đối với chính sách của nhà nớc Việt Nam. Sự tin
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
tởng đó xuất phát từ tính minh bạch, đơn giản trong thủ tục thành lập doanh
nghiệp, đồng thời xuất phát từ sự bình đẳng với các nhà đầu t trong nớc. Thực tế
những năm vừa qua cho thấy, số lợng các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài
tăng 2,42 lần trong 5 năm, từ năm 2000 đến năm 2005 nhng tỉ trọng trong tổng số
doanh nghiệp ở Việt Nam đã giảm nhẹ từ 3,61% xuống còn 3,42% [Tr 5- 15]. Kết
quả này là do pháp luật đã có những cải thiện trong quy định về địa vị pháp lý của
các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài song vẫn cha đáp ứng đợc đầy đủ nguyện
vọng của tổ chức, cá nhân nớc ngoài muốn đầu t vào Việt Nam. Do đó, trong bối
cảnh hiện nay, khi mà việc thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đang là yêu cầu
tất yếu để phát triển kinh tế, sự thống nhất pháp luật về doanh nghiệp có ý nghĩa
rất lớn trong việc tạo điều kiện thúc đẩy tăng trởng kinh tế, tạo công ăn việc làm
cho số lợng lớn ngời lao động, nâng cao mức sống của ngời dân, xoá đói giảm
nghèo _ vốn là những mục tiêu trọng yếu của nớc ta trong giai đoạn tới.
Thứ ba, sự thống nhất trong pháp luật về doanh nghiệp tạo điều kiện thuận
lợi để các nhà quản lý, các nhà đầu t, các chủ thể kinh doanh và công chúng có thể
nhận thức và áp dụng pháp luật về doanh nghiệp. Điều này cũng góp phần nâng
cao hiệu quả trong việc quản lý nhà nớc đồng thời giảm chi phí, tiết kiệm thời gian
cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy bớc đầu thống nhất pháp luật về doanh nghiệp
đã làm cho số lợng của doanh nghiệp ở Việt Nam những năm vừa qua tăng lên
đáng kể. Tổng cục thống kê đã công bố số lợng doanh nghiệp đã đi vào hoạt động
tính đến ngày 31/12/2005 của nớc ta là 113.352 doanh nghiệp, tăng 2,6 lần so với
năm 2000. Đặc biệt, số lợng doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đã không
ngừng tăng. Nếu nh trong ba năm 2001 2003, số lợng doanh nghiệp chỉ tăng
mỗi năm trên dới 10.000 doanh nghiệp thì trong 2 năm 2004 2005, con số này
là gấp đôi (105.569 doanh nghiệp vào năm 2005) [Tr 5 - 15]. Số lợng doanh
nghiệp sẽ đợc nhân lên nhiều lần nữa khi pháp luật về doanh nghiệp ngày càng
thống nhất và tạo điều kiện hơn cho doanh nghiệp gia nhập thị trờng.
Thứ t, thống nhất các loại hình doanh nghiệp sẽ tạo ra môi trờng cạnh tranh
lành mạnh bởi vì sự thống nhất ấy tạo ra một quy chế pháp lý chung cho các
doanh nghiệp. Chỉ khi đợc đặt trong cùng môi trờng pháp lý thì các doanh nghiệp
mới có cơ hội cạnh tranh một cách bình đẳng nhất. Làm đợc điều đó đồng nghĩa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét