Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin tại Tòa án

PHẦN I : LỜI GIỚI THIỆU
Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống
và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành trang để con người hòa
nhập vào cộng đồng xã hội .Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hôn nhân là cơ sở để
hình thành gia đình - tế bào của xã hội .Mỗi chế độ xã hội , gia đình đều thực
hiện chức năng cơ bản mang tính chất xã hội của nó .Gia đình ra đời tồn tại và
phát triển trước hết là nhờ nhà nước thừa nhận hôn nhân của nam nữ , đồng thời
qui định quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ .Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân từ lâu nhà nước ta từ lâu đã quan tâm tới việc bảo vệ chế độ
hôn nhân và gia đình, dưới nhà nước xã hội chủ nghĩa. Luật hôn nhân và gia
đình 1959, 1986 và 2000 đã góp phần hết sức quan trọng vào việc xây dựng mô
hình gia đình mới ,tiến bộ xã hội chủ nghĩa .Hệ thống pháp luật về hôn nhân và
gia đình của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay quy định vấn đề ly hôn với quan
điểm vừa tôn trọng, bảo vệ quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa
giải quyết ly hôn có lý có tình, bằng pháp luật Nhà nước kiểm soát quyền tự do
li hôn của vợ chồng vi lợi ích gia đình và xã hội.
Trong những năm gần đây tình trạng li hôn của nước ta xảy ra rất phổ
biến, với những nguyên nhân li do đa dạng phức tạp cả về chủ thể và nội dung.
Vấn đề giải quyết hậu quả của ly hôn cũng rất phức tạp nhiều hạn chế,vướng
mắc. Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, những vụ án kiện về hôn nhân và
gia đình chiếm trên dưới 50% trong tổng số các án kiện dân sự. Trong các án
kiện về hôn nhân và gia đình, li hôn chiếm trên 90%.
Trong thời gian học tập và nghiên cứu trong trường Đại Học Luật Hà Nội
và qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu hồ sơ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện
Phú Xuyên em thấy chế định ly hôn là chế định quan trọng trong quan hệ pháp
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam do vậy em chọn chuyên đề về thực tiến áp
dụng căn cứ li hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại huyên Phú Xuyên. Vì
đây là đầu tiên tiếp xúc việc nghiên cứu đề tài tốt nghiệp, kết hợp cả tinh lí luận
và thực tiễn, cũng với phạm vi nghiên cứu khá rộng trong khi đó thời gian có
hạn, nhiều nội dung chưa được đầu tư thỏa đáng vì thế chất lượng chuyên đề còn
nhiều hạn chế và không tránh khỏi những sai xót vì vậy em rất mong nhận được
sự quan tâm chỉ bảo của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
1
PHẦN II: NỘI DUNG
2.1. Quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin
2.1.1 Khái quát về quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin tại Tòa án
Tìm hiểu và thu thập thông tin là một việc quan trọng trong quá trình thực
tập của sinh viên bởi qua quá trình này sinh viên được bổ sung thêm kiến thức
thực tế tại các Toà an cũng như trang bị những kĩ năng cần thiết phục vụ cho
công việc sau khi sinh viên tốt nghiệp,và điều quan trọng hơn hết bây giờ là
phục vụ tốt nhất cho việc viết chuyên đề thực tập. Nhận thức được tầm quan
trọng của quá trình tìm hiểu, thu thập thông tin và có sự chuẩn bị cho việc này,
tài liệu nhằm hoàn thành tốt nhất cho việc nghiên cứu cũng như là viết chuyên
đề thực tập tốt nghiệp ma mình đã lựa chọn.
Được sự giúp đỡ của quý cơ quan nơi thực tập, đặc biệt là sự giúp đỡ của
lãnh đạo Tòa án huyên Phú Xuyên, các thẩm phán, thư ký trong quá trình thực
tập, trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin vì thế mà các số liệu mà em
trình bầy trong chuyên đề mang tính sát thực. Số liệu được rút ra từ các báo cáo
tháng, quý và báo cáo năm của Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, các số liệu
được rút ra từ sổ thụ lý vụ án về hôn nhân và gia đình, từ sổ theo dõi kết quả
xét sử sơ thẩm vụ án về hôn nhân và gia đình, từ các hồ sơ vụ án về hôn nhân
và gia đình trong các các năm 2005, 2006, 2007. Tuy nhiên các số liệu không
thể đưa vào bài viết một cách thuần túy mà còn phải thông qua quá trình xử lí
thông tin, đánh giá và đưa ra được bản chất của vấn đề cần xem xét là” thực
tiễn áp dụng căn cứ li hôn để quyết các trường hợp li hôn tại nơi thực tập” .
Trong khoảng thời gian hơn ba tháng thực tập tại tòa án mục đích thực tập
là bổ sung những kiến thức thực tiễn tại tòa án, đồng thời xem xét, lí giải thực
tiễn áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng tại
địa phương nơi thực tập.Để làm dược việc nói trên đồng thời phục vụ tốt cho
việc viết chuyên đề.Mỗi sinh viên thực tập đều phải thu thập thông tin, sau đó
xử lí số liệu và đưa vào bài viết chuyên đề của mình nhằn hoàn chỉnh một
chuyên đề.Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin phục vụ cho việc viết chuyên
2
đề thực tập diễn ra từ ngày đầu tiên thực tập tại Tòa án và trong suốt quá trình
thực tập đến khi hoàn thành chuyên đề. Trong quá trình đó như đã trình bày ở
trên ngoài những thuận lợi cơ bản thì còn gặp những khó khăn nhất định như:
Những thông tin lưu trữ dưới dạng thủ công, không cụ thể rõ ràng, số liệu
không tập trung do vậy việc thống kê và thu thập thông tin còn gặp nhiều khó
khăn. Nhưng với tinh thần hăng say, nhiệt tình của một sinh viên thực tập đã
giúp em hoàn thành tốt quá trình thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho việc
viết chuyên đề.
Để đạt kết quả trong việc xử lý các số liệu thu thập được em phải thông
qua rất nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương
pháp thống kê, tổng hợp đối chiếu so sánh…Xuất phát từ phương pháp luận
triết học Mac – Lênin và Tư Tưởng Hồ Chí Minh, lý luận chung về Nhà nước
và pháp luật từ đó xâu chuỗi lôgic các vấn đề lại.
Ngoài các thông tin của bài viết này được tìm hiểu qua các thông tin đại
chúng như: đài, báo, sách vở và rút ra từ gia đình, ban bè và ý thức của bản
thân, đặc biệt bản thân em còn được cơ quan nơi thực tập tạo điều kiên cho việc
thâm nhập thực tế, bằng những kinh nghiệm thực tế thu thập được góp phần
quan trọng vào việc hoàn thành đề tài.
2.1.2 Kết quả của quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin.
Sau một thời gian không lâu kể từ khi thực tập tại Tòa án với sự giúp đỡ
tận tình của lãnh đạo Tòa án các can bộ hướng dẫn thực tập, sự nỗ lực của bản
thân trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin kết quả thu được là rất tốt, nó
thể hiện được nội dung cốt lõi của vấn đề nghiên cứu “Thực trạng ly hôn tại địa
phương Phú Xuyên trong ba năm 2005, 2006, 2007.Qua những số liệu thu thập
đươc giúp em đánh giá được thực trang ki hôn, tìm hiểu được nguyên nhân cũng
như là đưa ra được giải pháp nhằm hạn chế được tình trạng li hôn.Cụ thể những
thông tin thu được thể hiên ngắn ngọn ở bảng số liệu sau.
3
Đơn vị: vụ
Năm Thụ lý
Tạm
đình chỉ
Đình chỉ Bản án
Công
nhận tt
Hòa giải
thành
2005 45 2 1 8 32 1
2006 47 10 3 12 28 1
2007 71 8 2 17 35 2
- Lý do ly hôn
Đơn vị: vụ
Năm
Mâu thuẫn
vợ chồng
Ngoại tình Không con
Một bên đi
vắng
Nghiện hút
2005 37 1 3 3 1
2006 41 1 2 5 1
2007 58 3 3 3 2
2.2 Các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam.
2.2.1 Đặc thù về kinh tế-chính trị-xã hội ở huyên Phú Xuyên.
Phú Xuyên là một huyện đồng bằng của Tỉnh Hà Tây, có vị trí địa lý
thuận lợi, phần lớn địa bàn huyện nằm trên trục quốc lộ 1A đoạn Hà Nội – Hà
Nam.Kinh tế-xã hội trong huyện còn kém phát triển so với một số huyện khác
trong tỉnh, ngoài cơ cấu kinh tế Nông nghiệp là chủ yếu còn có sự phát triển của
tiểu thủ công nghiệp-các làng nghề truyền thống.Về điều kiện xã hội đây là một
huyện đồng bằng nên thuần nhất về cơ cấu dân số toàn bộ là người Kinh. Nhìn
4
chung trình độ dân trí phát triển khá đồng đều từ thi trấn cho tới các xã xa trung
tâm của thị trấn.Đời sống văn hóa của người dân đa dạng trong đó có nhiều
phong tục tập quán, lễ hội, một số xã trong huyện là địa bàn cư trú của đồng bào
Công giáo có đạo.
Đặc biệt trình độ nhận thức pháp luật của đại bộ phận người dân trong
huyện còn thấp mà nguyên nhân thì rất nhiều nhưng chủ yếu xuất phát từ đời
sống kinh tế của người dân còn khó khăn lại là một huyện vùng xa của tỉnh Hà
Tây, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật còn bộc lộ nhiều yếu
kém chưa được chú trọng một cách đúng mức, trình độ dân trí nói chung còn
thấp.
Từ những đặc điểm về kinh tế- chính trị- xã hội như đã trình bày có ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống trong huyện nói chung và đời sống hôn nhân và
gia đình nói riêng, như tình trạng ly hôn diễn ra ngày càng nhiều trong những
năm vừa qua. Các căn cứ để Tòa án giải quyết ly hôn cũng như nguyên nhân dẫn
tới tình trạng ly hôn thì rất nhiều và khác nhau.
2.2.2. Căn cứ ly hôn theo định của luật hôn nhân và gia đình và các văn
bản pháp luật có liên quan.
2.2.2.1. Căn cứ ly hôn do một bên vợ hoặc chồng nộp đơn xin ly hôn.
Quyền ly hôn là một quyền hiến định được quy định trong Hiến pháp và
văn bản pháp lý bảo vệ quyền dân sự của cá nhân được quy định tại điều 42 Bộ
luật dân sự 2005 và được cụ thể hóa chi tiết trong luật hôn nhân và gia đình và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Kể từ khi giành được chính quyền đến nay
Đảng và Nhà nước ta không ngừng chăm lo đến đời sống của gia đình nói riêng,
đời sống của nhân dân nói chung.Từ sau năm 1945 Nhà nước đã ban hành nhiều
xác lệnh quy định về kết hôn các điều kiên kết hôn, trải qua một thời gian dài
Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao như luật
hôn nhân và gia đình 1959; luật hôn nhân và gia đình năm 1986; và văn bản
đang có hiệu lực pháp lý là luật hôn nhân và gia đình 2000.Trong đó có qui định
căn cứ ly hôn cụ thể có hai căn cứ ly hôn:
5
Điều 89. Căn cứ cho ly hôn
1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án
quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin
ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn
Căn cứ cho ly hôn là những tình tiết được qui định trong pháp luật, chỉ khi
có những tình tiết (điều kiện) đó thì Tòa án mới mới được xử cho ly hôn. Căn cứ
cho ly hôn là cơ sở pháp lý thì Tòa án dựa vào đó giải quyết ly hôn.
Nghị quyết 02/2000/NQ -HĐTP ngày 23-12-2000 của Tòa án nhân dân tối cao
có một số qui định nhằm làm rõ cụm từ “tình trạng trầm trọng,đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.
a
1
. Được coi là tình trạng trầm trọng của vợ chồng khi:
- Vợ chồng không thương yêu, quí trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như:
Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng
muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan tổ
chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần.
- Vợ chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau như: Thường xuyên
đánh đập hoặc có hành vi khác xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của
nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc
nhở, hòa giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thủy với nhau như: Có quan hệ ngoại tình, đã
được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ
chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình.
a
2
. Để có những cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài
được thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng
như hướng dẫn tại Điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở,
hòa giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục
sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc
6
phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không
thể kéo dài được.
a
3
. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng;
không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh
dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi
mặt”.
Như vậy, theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, nội dung căn cứ
chung để cho ly hôn là xuất phát từ những nguyên nhân, lý do cụ thể trong đời
sống vợ chồng như: vợ, chồng luôn có hành vi ngược đãi, đánh đập, xúc phạm
danh dự ,nhân phẩm ,uy tín của nhau; vợ chồng không chung thủy với nhau đã
được gia đình , những người thân thích , cơ quan tổ chức, đoàn thể khuyên can ,
hòa giải nhiều lân mà vợ chồng vẫn có những hành vi như trên , dẫn đến đời
sống tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn đã sâu sắc không thể
hòa giải được, mục đích của hôn nhân nhằm xác lập quan hệ vợ chồng chung
sống hòa thuận, hạnh phúc, bền vững, xây dựng gia đình – những tế bào xã hội
đã không thể đạt được; và ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng là cần thiết
và tất yếu.
2. Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định căn cứ
thứ hai: để tòa án giải quyết việc ly hôn: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của
người bị tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn”.
Xét về kĩ thuật lập pháp, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 coi đây là một căn
cứ để giải quyết cho ly hôn (trước đây theo Luật hôn nhân và gia đình 1959 và
1986 của nhà nước ta không qui định vấn đè này.Tuy nhiên, trong thực tiễn xét
xử các án kiện ly hôn nhiều năm qua ở nước ta, khi chưa có Bộ luật dân sự năm
1995 tòa án vẫn giải quyết ly hôn theo yêu cầu của đương sự khi vợ, chồng của
họ đã bị tuyên bố mất tích”.
Đường lối giải quyết ly hôn khi vợ, chồng bị mất tích được hương dẫn tại
Nghị quyết số 02/200/NQ - HĐTP:
7
- Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố người
chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Trong trường hợp này, nếu Tòa đã tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho
ly hôn; nếu Tòa án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác
các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
- Người vợ hoặc nguời chồng đã bị Tòa án tuyên bố mất tích theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Tòa án tuyên bố người
vợ hoặc người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc
người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp
này Tòa án giải quyết cho ly hôn.
- Khi Tòa án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần
chú ý giải quyết việc quản lí tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng
qui định tại Điều 89 Bộ luật dân sự 1995.
2.2.2.2 Trường hợp thuận tình ly hôn
Điều 90.Thuận tình ly hôn
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án
không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc
chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án
công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và trên cơ sở bảo đảm
quyền lợi ích chính đáng của vợ và con; nếu không thỏa thuận được hoặc tuy có
thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con thì
Tòa án quyết định.
Như vậy, việc pháp luật qui định và công nhận sự thuận tình ly hôn của
hai vợ chồng là nhằm giải quyết và chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột trầm
trọng trong cuộc sống vợ chồng mà từ đó, mục đích của hôn nhân không đạt
được, ảnh hưởng đến cuộc sống của con cái và các thành viên khác trong gia
đình. Tuy nhiên, vợ chồng không thể xin ly hôn một cách tùy tiện,vô trách
nhiệm mà phải phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội
trên cơ sở cân nhắc đến lợi ích chung của gia đình con cái.
8
Cũng theo Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, trong việc thuận
tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện của cả hai vợ chồng, đòi hỏi vợ chồng
còn phải có sự thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi
dưỡng, giáo dục con chưa thành niên trên cơ sở bảo đảm quyền lợi ích chính
đáng của vợ và con; nếu vợ chồng không thể thỏa thuận được, hoặc tuy có thỏa
thuận được, hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính
đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định.
Bên cạnh những trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn, còn có nhiều
trường hợp việc ly hôn chỉ xuất phát từ ý chí của một bên vợ chồng mà không có
sự thuận tình của bên kia vì những lí do khác nhau: do không nhận thức được
mâu thuẫn vợ chồng đã sâu sắc, trầm trọng, quan hệ hôn nhân đã tan vỡ hoặc có
thể nhận thức được nhưng vẫn không muốn ly hôn vì động cơ nào đó như quyền
lợi con cái …Theo qui định tại Điều 91, khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu xin
ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn.
Về nguyên tắc Tòa án chỉ xét xử cho ly hôn nếu xét thấy quan hệ vợ
chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được”.Như vậy, xét về bản chất giải quyết việc ly
hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn hoặc mội bên vợ chồng yêu cầu là giống
nhau.
Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao tại mục 10 của Nghị quyết:
a)Khi một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn thì Tòa án phải tiến hành hòa
giải. Nếu hòa giải đoàn tụ thành mà người yêu cầu xin ly hôn rút đơn yêu cầu
xin ly hôn thì Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự, ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Nếu người xin ly hôn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án lập
biên bản hòa giải thành. Sau 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc
chồng hoặc cả hai vợ chồng đều có không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện
kiểm sát không phản đối thì Tòa án quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ
thành.Quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ thành có hiệu lực pháp lý ngay và
9
các đương sự không có quyền kháng cáoViện kiểm sát không có quyền kháng
nghị theo trình tự phúc thẩm.
b) Trong trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì Tòa án lập biên bản
hòa giải đoàn tụ không thành, đồng thời tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án ly
hôn theo thủ tục chung”.
Riêng đối với trường hợp vợ chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích
có yêu cầu ly hôn, tại Điểm b mục 8 Nghị quyết số 02 như đã dẫn:
“Theo qui định tại khoản 2 Điều 89 thì “…trong trường hợp vợ hoặc chồng bị
Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”. Thực tiễn
cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau:
b1) Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố người
chồng hoặc người vợ của mình mất tích thì và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly
hôn, nếu Tòa án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các
yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
b2) Người vợ hoặc người chồng tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.Sau khi bản án của Tòa án tuyên bố người vợ
hoặc người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì người vợ hoặc người
chồng của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó.Trong trường hợp này
Tòa án giải quyết cho ly hôn.
b3) Khi Tòa án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì
cần chú ý giải quyết việc quản lí tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo
đúng qui định tại Điều 89 Bộ luật dân sự.
3. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly
hôn tại Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên.
3.1. Thực trạng ly hôn ở huyện Phú Xuyên
Trong những năm vừa qua số vụ án về ly hôn mà Tòa án nhân dân huyện
Phú Xuyên đã thụ lý chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng số các loại án mà Tòa án đã
thụ lý và giải quyết. Điều đó cho thấy tình trạng ly hôn ngày càng nhiều, theo
thống kê trong báo cáo tổng kết cuối năm của Tòa án nhân dân huyện Phú
Xuyên thì số vụ mà Tòa án đã thụ lí là 45 trong năm 2005, năm 2006 là 47 vụ và
10
trong năm 2007 là 71 vụ. Điều này cho thấy cho thấy số vụ án ly hôn tang qua
các năm nhất là trong năm 2006 và 2007.
Như vậy qua những những số liệu trên cho thấy rằng tình trạng ly hôn trên
địa bàn huyện Phú Xuyên đang ở mức báo động, từ năm 2005 trở lại đây số vụ
án về ly hôn mà Tòa án thụ lý và giải quyết tăng dần qua các năm. Điều này, cho
thấy tỉ lệ ly hôn là khá nhiều, tăng một cách đáng ngại năm sau tăng hơn năm
trước. Có thể khái quát thực trang ly hôn ở huyện Phú Xuyên bằng bảng số liệu
và thể hiện ở bằng biểu đồ sau:
Đơn vị: vụ
Năm 2005 2006 2007
Thụ lý 45 47 71

Phú Xuyên là một huyện gồm có nhiều xã và hai thị trấn trung tâm huyện,
qua số liệu trên của các năm gần đây số vụ án về ly hôn trên địa bàn huyện diễn
ra không đồng đều giữa các xã, chủ yếu tập trung tại các xã kém phát triển và
gồm cả hai thị trấn, điều đó cho thấy kinh tế kém phát triển không phải là
nguyên nhân chính dẫn đến ly hôn.Ngoài nguyên nhân cơ bản do tác động của
nền kinh tế thị trường còn có các nguyên nhân khác như nạn ma túy, cờ bạc,
rượu chè,…làm cho đời sống gia đình mất đi tính chất của nó, làm cho nó bị
biến dạng làm cho tình trạng ly hôn xảy ra nhiều.
Mặc dù trong những năm gần đây số vụ án ly hôn có hướng tăng nhưng
quan trọng là tính chất của nó rất đáng ngại, bởi vì số vụ án về ly hôn mà có vợ
chồng trẻ chiếm tỉ lệ lớn.Đã có những vụ án ly hôn do một bên nghiện rượu
11
0
10
20
30
40
50
60
70
80
2005 2006 2007
nghiện ma túy, hoặc có những vụ mà chồng ngược đãi hành hạ vợ, đặc biệt có
nhiều vụ án ly hôn mà có con nhỏ.Điều đó đã và đang dặt ra cho các cấp các
ngành ở địa phương những vấn đề nan giải, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
vợ chồng cũng như đời sống xã hội trong huyện.
3. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại
huyện Phú Xuyên.
Như đã nói ở trên,theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, nội dung
căn cứ ly chung để cho ly hôn là xuất phát từ những nguyên nhân, lý do cụ thể
cụ thể trong đời sống vợ chồng như: vợ chồng luôn có hành vi luôn có hành vi
ngược đãi, đánh đập, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, uy tín của nhau; vợ chồng
không chung thủy với nhau đã được gia đình, những người thân thích, cơ quan
tổ chức khuyên can hòa giải nhiều lần mà giữa vợ và chồng vẫn còn có những
hành vi trên, dẫn đến đời sống chung, tình cảm yêu thương giữa vợ và chồng đã
hết, mâu thuẫn đã hết không thể hòa giải, mục đích của hôn nhân nhằm xác lập
quan hệ vợ chồng, chung sống hòa thuận, hạnh phúc bền vững, xây dựng gia
đình - những tế bào của xã hội đã không thể đạt được, và ly hôn nhằm chấm dứt
quan hệ vợ chồng là cần thiết và tất yếu.
Các vụ án về ly hôn ở huyện Phú Xuyên trong những năm vừa qua cho
thấy những lý do dẫn tới việc các cặp vợ chồng ly hôn là khác nhau. Trong ba
năm 2005, 2006, 2007 lí do ly hôn được thống kê ở bảng số liệu sau:
Đơn vị: vụ
Năm Mâu thuẫn
vợ chồng
Ngoại tình Không con Một bên đi
vắng
Nghiện hút
2005 37 1 3 3 0
2006 41 1 3 3 1
2007 58 3 5 5 2
- Do mâu thuẫn vợ chồng
12
Gia đình là tế bào của xã hội,gia đình có ấm no hạnh phúc thì xã hội mới
phát triển được.Thế nhưng không phải bất cứ gia đình nào cũng hạnh phúc mà
trong cuộc sống nó phát sinh nhiều điều mâu thuẫn. Những vụ án trong các năm
2005,2006,2007 mà Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên đã thụ lý và giải quyết
thì nguyên nhân chủ yếu do mâu thuẫn gia đình chiếm hơn 80% trong tổng số
các vụ án về ly hôn.Năm 2005 số vụ án ly hôn do vợ chồng là 37 vụ chiếm 81%.
Mâu thuẫn gia đình chủ yếu phát sinh do bất đồng quan điểm sống, cách suy
nghĩ, sự khó khăn về kinh tế trong gia đình cung như các hành vi ứng xử trong
gia đình. Mâu thuẫn vợ chồng cũng có thể xuất phát từ những xích mích, hiểu
lầm, ghen tuông, sự đố kị hẹp hòi trong cuộc sống, từ sự thiếu hiểu biết của một
bên hoặc cả hai bên về quyền và nghĩa vụ của mình đối với gia đình.
Ví dụ như: vụ ly hôn giữa nguyên đơn là chị Nghiêm Thị Báu và bị đơn là
anh Nghiêm Đức Tuấn, đều trú tại tại thôn Kim Qui, xã Minh Tân, huyện Phú
Xuyên, tỉnh Hà Tây. Vụ án này đã được Tòa án thụ lí và xét xử theo bản án số
05/2007/LHST ngày 25/04/2008, nguyên nhân dẫn đến ly hôn là do tính tình
không hợp vợ chồng hay xảy ra xô xát đánh nhau cãi cọ, vợ chồng đã ly thân
được hơn 10 năm và đều có gia đình riêng.
Theo qui định của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì mâu thuẫn vợ
chồng thì mâu thuẫn gia đình ảnh hưởng tới cuộc sống chung của vợ chồng
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được đó là một căn cứ để
Tòa án quyết định cho ly hôn. Để có thể giảm bớt tình trạng ly hôn thì thiết nghĩ
các cặp vợ chồng cần phải sống gắn bó,có trách nhiệm với nhau và trách nhiệm
với gia đình, chăm sóc và xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc.
Trong năm các năm 2006 và 2007 trong số các vụ án về ly hôn thì mâu
thuẫn gia đình là 41, 58 và chiếm 83%,78%.Qua phân tích số liệu ở trên cho
thấy mâu thuân gia đình là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng ly hôn ngày
càng nhiều ở huyện Phú Xuyên hiện nay.
- Một bên đi vắng
Ngoài lí do ly hôn do mâu thuẫn vợ chồng thì các lí do khác chiếm một tỉ
không lớn, tuy nhiên nó đang đặt ra rất nhiều bức thiết cần nghiên cứu kĩ trong
13
đó có lí do một bên bỏ nhà đi không về.Đây không phải là một nguyên nhân
mới, tuy nhiên trong những năm vừa qua nó lại xuất hiện khá nhiều khiến các
nhà chức trách phải quan tâm. Đi tìm câu trả lời cho vấn đề này cho thấy rằng
huyện Phú Xuyên là một huyện đồng bằng với độ dân số khá cao, do đó lao
động phục vụ cho tại chỗ dư thừa, không sử dụng hết nguồn lao động tại địa
phương. Vì vậy có nhiều trường hợp vợ chồng đi làm ăn xa lâu ngày không về
làm cho cuộc sống gia đình ngày càng phai nhạt dần, thiếu sự quan tâm, đùm
bọc, chăm sóc lẫn nhau dẫn tới mâu thuẫn gia đình và ly hôn.Tuy nhiên không
phải tất cả các vụ bỏ nhà đi là do làm ăn xa mà bỏ đi còn có nhiều lí do khác.
Theo thống kê năm 2005 số vụ án về ly hôn do một bên đi vắng là 3/45 vụ
chiếm 7 %.Năm 2006 là 3/43 vụ chiếm 7,3 %.Theo các số liệu trên thì ly hôn do
một bên đi vắng từ năm 2005 đến 2006 không tăng nhưng nó chiếm tỉ lệ khá
trong tổng số tất cả các nguyên nhân ly hôn.
- Do ngoại tình
Các nguyên nhân do một bên vợ hoặc chồng ngoại tình dẫn đên ly hôn chiếm tỉ
lệ nhỏ, năm 2005 là 1/45 vụ, năm 2006 là 1/47 và trong năm 2007 là 3/71. Như
vậy năm 2005, năm 2006 là không tăng còn 2007 tăng thêm 2 vụ. Ngoại tình là
vấn đề rất nhạy cảm đến đời sống của vợ chồng cũng như ảnh hưởng tới thuần
phong mĩ tục của cộng đồng xã hôi, chính vì thế mà ly hôn với ly do ngoại tình
thường ít hơn so với các lí do khác.
- Do không con
Nguyên nhân do vợ chồng không có con chiếm tỉ lệ cũng khá cao. Năm 2005 là
5/45 chiếm 6.7%, năm 2006 là 3/47 chiếm 6,4% và trong năm 2007 là 5/71
chiếm 7%. Như vậy nguyên nhân này tỉ lệ có tăng giảm và đây cũng là nguyên
nhân khiến nhiều cặp vợ chồng làm đơn xin khởi kiện xin ly hôn.
Ví dụ điển hình về không có con: Ngày 27/12/2007 Tòa án nhân dân huyện
Phú Xuyên đã thụ lí về ly hôn giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Khe và bị đơn
là anh Hoàng Văn No với lí do hai anh chị đã chung sống với nhau thời gian dài
mà không có con, nên anh No đã chung sống như vợ chồng với chị Nguyễn Thị
Loan là công nhân. Lí do ly hôn giữa anh No và chị Khe không phải trực tiếp từ
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét