Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN (TỪ 1997 ĐẾN 2008)

Sau năm 1954, đất nước chia cắt thành hai miền Nam, Bắc
với những hoàn cảnh và nhiệm vụ cách mạng khác nhau. Miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng, Đảng đã chủ trương tiến hành
tập thể hóa nông nghiệp từ năm 1958 trở đi. Theo đó, hầu hết
ruộng đất cũng như sản xuất nông nghiệp đều đặt dưới sự quản
lý của hợp tác xã. Miền Nam còn chưa được giải phóng khỏi ách
thống trị của đế quốc phong kiến nên nhiệm vụ của cách mạng
ruộng đất lúc này là: “Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn
đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng”. Thắng
lợi của cách mạng ruộng đất đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng
đất, bóc lột của địa chủ phong kiến và thực dân, thực hiện triệt
để khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”.
Trước yêu cầu đổi mới và để tiếp tục phát triển kinh tế nông
nghiệp, ngày 13/1/1981, chỉ thị 100 CT/TW ra đời quyết định
chủ trương thực hiện chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến
nhóm và người lao động. Năm 1981 được coi là dấu mốc khởi
đầu cho một quá trình đổi mới từng bước cơ chế quản lý nông
nghiệp nói chung, cơ chế quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói
riêng ở nước ta. Tiếp theo đó, ngày 5/4/1988, Bộ chính trị Trung
ương Đảng đã ra nghị quyết về “Đổi mới quản lý kinh tế nông
5
nghiệp” (gọi tắt là Nghị quyết 10). Nghị quyết 10 đã tiến một
bước dài trong việc định lại vị trí của kinh tế hộ gia đình và vai
trò quyền lợi của người lao động trong quan hệ kinh tế nông
thôn. Từ đây, ruộng đất đã chuyển từ chế độ sở hữu tập thể sang
chế độ công hữu tư dụng (sở hữu tư nhân hạn chế).
Năm 1997, sau hơn 30 năm hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành
tỉnh Bắc Thái, tỉnh Thái Nguyên đã được tái lập lại gồm 9 đơn
vị hành chính trực thuộc: các huyện Định Hóa, Võ Nhai, Phú
Lương, Đại Từ, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, thị xã Sông Công
và thành phố Thái Nguyên. Trong đó, huyện Phú Bình nắm giữ
một vị trí quan trọng, Đảng bộ Phú Bình trở thành đầu mối trực
thuộc tỉnh ủy Thái Nguyên. Sự đổi mới của Đảng đã đáp ứng
đúng tâm lý, nguyện vọng của đông đảo nhân dân, khơi dậy một
khí thế mới, cổ vũ hàng triệu hộ nông dân bỏ vốn, bỏ sức phát
triển sản xuất, xây dựng nông thôn. Tại Phú Bình, diện tích và
sản lượng lúa không ngừng tăng. Năm 1998 diện tích lúa gieo
trồng tăng từ 12952 ha lên 13528 ha (năm 2000), sản lượng lúa
tăng từ 43399 tấn (năm 1998) lên 52085 tấn (năm 2000). Sở dĩ
sản lượng cũng như diện tích trồng lúa của huyện Phú Bình
trong những năm này ổn định và có sự tăng trưởng khá là do sự
6
thay đổi về sở hữu và sử dụng ruộng đất. Tuy nhiên cho tới nay
vẫn chưa có một công trình khoa học hay một tài liệu chuyên
khảo nào nghiên cứu một cách chi tiết về vấn đề này.
Xuất phát từ lý do nêu trên chúng tôi chọn đề tài “Sở hữu và
sử dụng ruộng đất ở huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên 1997-
2008” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Chúng tôi hi vọng sẽ góp
một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu mức độ sử dụng ruộng đất
của từng giai tầng. Trên cơ sở đó, giúp chúng ta có cái nhìn căn
bản và toàn diện về tình hình kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân,
tập quán sản xuất… Từ đó, tác giả mong muốn đóng góp thêm
cơ sở khoa học cho Đảng bộ và địa phương trong việc quản lý
ruộng đất, phát triển nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, vấn đề ruộng đất đã được trình bày trong nhiều
tác phẩm của các nhà lãnh đạo Đảng ta và các nhà nghiên cứu
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Về lịch sử chế độ ruộng đất thời kỳ cổ trung đại và cận đại có
các chuyên khảo của các tác giả như: Phan Huy Lê: Chế độ
7
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ, Nxb Văn-sử-địa,
Hà Nội, 1959; Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt
Nam thế kỷ XVII, Nxb khoa học xã hội, tập 1, Hà Nội, 1982…
Về vấn đề ruộng đất trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
có tác phẩm: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1975 của đồng chí Trường Chinh; giai cấp vô sản với
vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1965 của đồng chí Lê Duẩn.
Về vấn đề ruộng đất, nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ đổi
mới có những tác phẩm như: Thực trạng nông nghiệp nông thôn
và nông dân Việt Nam từ năm 1976 đến 1990, Nxb Thống Kê,
Hà Nội, 1991 của Nguyễn Sinh Cúc; vấn đề sở hữu và sử dụng
ruộng đất trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt
Nam, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 1999 của Hoàng Việt.
Gần đây, nhất là tác phẩm “Quá trình thực hiện quyền sở hữu
ruộng đất cho nông dân ở Thái Nguyên (1945-1957); Nxb chính
trị quốc gia của tiến sĩ Nguyễn Duy Tiến. Một công trình nghiên
cứu quy mô về tình hình cải cách ruộng đất của tỉnh Thái
Nguyên trong giai đoạn 1945-1957 xem xét mức độ sở hữu,
phương thức sử dụng ruộng đất của từng giai tầng. Tiếp theo là
8
đề tài luận văn thạc sĩ lịch sử : sở hữu và sử dụng ruộng đất ở
tỉnh Thái Nguyên (1988- 2005) của Phí Văn Liệu; Đại học sư
phạm – ĐHTN ;2009 cũng đã bảo vệ thành công và nhận được
sự đánh giá cao.
Bên cạnh đó có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn
đề ruộng đất huyện Phú Bình như:
Tác phẩm “Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ” của Tạ Thị
Thúy.
Tác phẩm “Tiểu chí Thái Nguyên” 1932 của công sứ Pháp E.
Chinard có đề cập nhiều vấn đề như diện tích đất đai, chăn nuôi,
một số đồn điền lớn ở Thái Nguyên trong đó có huyện Phú Bình.
Luận văn “Huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên qua tư liệu địa
bạ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX” của tác giả Lê Thị Thu
Hương. Một công trình nghiên cứu tập hợp có hệ thống các tài
liệu và kết quả nghiên cứu về tình hình sở hữu ruộng đất của
huyện Phú Bình”.
Đề tài nghiên cứu khoa học “Đồn điền của thực dân Pháp ở
huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên” của Trương Thị Khánh
Dung tập trung nghiên cứu những hoạt động chung nhất của quá
9
trình cướp đất, khai thác, quản lý và bóc lột của thực dân Pháp
tại các đồn điền ở huyện Phú Bình trong giai đoạn từ năm 1897
đến năm 1945.
Với số lượng tài liệu đồ sộ trên đây, tình hình ruộng đất, nông
nghiệp, nông thôn và nông dân ở nước ta trong suốt một thời kỳ
dài đã phần nào được làm rõ. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên
cứu nhỏ hẹp là “Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở huyện Phú Bình
tỉnh Thái Nguyên 1997-2008” thì cho tới nay vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu. Mặc dù vậy, các công trình nghiên
cứu đi trước đã phác họa bức tranh toàn cảnh về vấn đề ruộng
đất, nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Đó là ý kiến gợi mở quý
báu, là cơ sở để tôi nghiên cứu và hoàn thành khoá luận tốt
nghiệp.
3. Đối tượng nghiên cứu, mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là:
Tìm hiểu về tình hình sở hữu và sử dụng ruộng đất trong đó
nhấn mạnh về phương thức khai thác ruộng đất ở huyện Phú
10
Bình – một huyện có 98,8% cư dân nông thôn sống bằng nông
nghiệp trong các làng xã từ sau khi có quyết định tách tỉnh năm
1997.
3.2 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa các nguồn tư liệu và các kết quả
nghiên cứu về ruộng đất huyện Phú Bình, mục đích của đề tài
nghiên cứu này là nhằm:
Hệ thống hoá các nguồn tư liệu về ruộng đất ở huyện Phú
Bình từ 1997-2008.
Xem xét sự thay đổi về hình thức sở hữu và phương thức sử
dụng ruộng đất ở huyện Phú Bình so với giai đoạn trước đó.
Xem xét những biến đổi trong sản xuất nông nghiệp ở huyện
Phú Bình.
Tìm hiểu những mặt mạnh, những vấn đề còn yếu kém ở địa
phương trong quá trình sản xuất. Trên cơ sở đó đưa ra một vài
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quyền sở hữu ruộng
đất cho nông dân huyện Phú Bình.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
11
Phạm vi không gian được nghiên cứu của đề tài là toàn bộ
huyện Phú Bình hiện nay.
Phạm vi thời gian được nghiên cứu là từ năm 1997 (từ khi có
quyết định tách tỉnh) đến 2008.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng các
nguồn tài liệu sau:
Tài liệu chuyên khảo: các tạp chí chuyên ngành, các tác
phẩm thông sử đã được công bố và xuất bản…
Tài liệu lưu trữ: bao gồm các Thông tư, Chỉ thị, Sắc lệnh, Số
liệu thống kê, Báo cáo của các cơ quan, Đảng và nhà nước các
cấp đang lưu tại phòng lưu trữ Tỉnh ủy Thái Nguyên, lưu trữ Ủy
ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái
Nguyên…Đây đều là những tài liệu có độ chính xác cao và đáng
tin cậy.
12
Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử đảng bộ huyện Phú Bình,
Dư địa chí Thái Nguyên (trong đó có ghi chép rất kỹ về huyện
Phú Bình tỉnh Thái Nguyên).
Nguồn tư liệu điền dã: để hiểu thêm thực tế những vấn đề
ruộng đất trong thời kỳ này, cũng như để thẩm định một số vấn
đề mà tư liệu lưu trữ không nói rõ hoặc có những mâu thuẫn, tôi
đã tiến hành các đợt thực địa tại huyện Phú Bình. Qua đó cũng
phần nào thấy được những thay đổi trong đời sống của nhân dân.
Ngoài ra các tư liệu truyền miệng do các cụ già cao tuổi kể lại
rất phong phú và đa dạng giúp tôi có thêm những tư liệu cần
thiết để hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Đồng thời đề tài
còn được kế thừa những kinh nghiệm quý báu từ những công
trình nghiên cứu trước đó.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Từ nguồn tư liệu trên, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử
và logic là chủ yếu.
Đề tài cũng sử dụng phương pháp thống kê, đối chiếu, so
sánh nhằm rút ra sự tương đồng hay khác biệt về sở hữu và sử
13
dụng ruộng đất của địa bàn qua các thời điểm cũng như giữa địa
bàn với nơi khác.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp điền dã và phương
pháp hệ thống.
Do các nguồn tư liệu báo cáo, số liệu thống kê còn nhiều chỗ
cần làm rõ. Vì vậy tôi đã tiến hành khảo sát thực địa tại một số
nơi để sưu tầm tư liệu mà các báo cáo, số liệu thống kê không
phản ánh đầy đủ.
5. Đóng góp của đề tài
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về sở hữu và sử dụng
ruộng đất ở huyện Phú Bình giai đoạn 1997-2008. Trên cơ sở
các nguồn tư liệu, đề tài góp phần làm rõ những biến đổi về tình
hình ruộng đất ở huyện Phú Bình từ năm 1997-2008 trên các
phương diện hình thức sở hữu, phương thức khai thác và sử
dụng.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng ruộng đất ở huyện Phú Bình,
đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân huyện Phú Bình. Qua đó,
mong muốn đóng góp thêm cơ sở khoa học giúp các nhà hoạch
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét