Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

502 Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế

Trang 5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ CẠNH TRANH TRONG
KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1. Vị trí, vai trò của khả năng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng ở nước
ta.
Hệ thống tài chính ngân hàng của bất kì một quốc gia nào đều chiếm một vị trí
hàng đầu và có vai trò cực kì quan trọng trong nền kinh tế của quốc gia đó - hệ thống
ngân hàng có thể ví như là xương sống để phát triển các ngành kinh tế khác. Tại bất kỳ
quốc gia nào có ngành ngân hàng phát triển cũng thúc đẩy sự phát triển của các ngành,
lĩnh vực khác liên quan. Chính vì vậy, khả năng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng
không chỉ có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng nói riêng mà còn có ý nghĩa với toàn bộ
nền kinh tế của quốc gia đó.
Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, theo tinh thần Nghị quyết 07-
NQ/ TW của Bộ Chính Trị về hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần xây dựng một hệ
thống ngân hàng đa dạng về hình thức , có uy tín với khách hàng, hoạt động có hiệu quả,
an toàn, nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa , hiện đại hóa
đất nước. Do vậy, đánh giá năng lực cạnh tranh của các NH tại VN có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong định hướng phát triển của ngành ngân hàng.
Việc nhận thức đúng tầm quan trọng của cạnh tranh trong kinh doanh cũng như
việc nhận thức đúng vị thế cạnh tranh của các NH VN càng thúc đẩy ngành ngân hàng
phát triển.
Mặc dù đã được Nhà nước xem như một vấn đề cấp bách cần giải quyết và dù
công cuộc cải cách kinh tế ở nước ta trong những năm gần đây đạt được nhiều tiến bộ
được quốc tế công nhận nhưng việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành NH tại VN
vẫn bị đánh giá là chậm so với việc đổi mới của nền kinh tế. Điều đó được thể hiện qua
năng lực cạnh tranh của Hệ thống Tài chính-Ngân hàng còn quá thấp so với Thế giới
cũng như trong khu vực (đánh giá năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng
ở VN năm 2000, trong 59 nước được xếp hạng thì VN đứng thứ 58, chỉ trên có
Indonexia) [Trích bài viết của tác giả Nguyễn Thị Kim Thanh - Vụ Chính sách Tiền tệ -
NHNN năm 2003 trong Hội thảo Khoa học tại Hà Nội]. Nhận định này dựa trên cơ sở
xem xét một số tiêu chí đánh giá mức độ, qui mô phát triển và năng lực chu chuyển vốn
của hệ thống ngân hàng.
Trang 6
Việc nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành ngân hàng hiện nay là rất khó
khăn, đó là do: nhận thức của con người về cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng còn
thấp và tiềm lực ngành NH của chúng ta còn yếu so với các NH trong khu vực. Đây có
thể nói là một thách thức lớn đối với hệ thống ngân hàng trong quá trình hội nhập.
1.2.
Khái niệm cạnh tranh và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
một tổ chức.
1.2.1 Khái niệm về cạnh tranh.
“Cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia là mức độ mà ở đó,
dưới các điều kiện về thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất ra các sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra việc làm
và nâng cao được thu nhập thực tế”.
Một doanh nghiệp được xem là có sức cạnh tranh khi nó có thể thường xuyên đưa
ra các sản phẩm thay thế, mà các sản phẩm này có mức giá thấp hơn so với các sản phẩm
cùng loại, hoặc bằng cách cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng
hay dịch vụ ngang bằng hay tốt hơn. Nhìn chung khi xét đến tính cạnh tranh của một
doanh nghiệp ta cần phải xét đến tiềm năng sản xuất một loại sản phẩm hàng hóa hay sản
phẩm dịch vụ nào đó ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà
không cần đến các yếu tố trợ giúp.
1.2.2 Các yếu tố góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh.
Lợi thế cạnh tranh là một trong những thế mạnh mà doanh nghiệp có hoặc có thể
huy động để có thể cạnh tranh thắng lợi.
Để có thể tạo được lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần nghiên cứu các vấn
đề như:
-Nguồn gốc sự khác biệt: So với đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có gì vượt trội
hơn về mặt giá cả sản phẩm, chất lượng sản phẩm hàng hóa, chất lượng sản phẩm dịch
vụ, mạng lưới phân phối.
-Doanh nghiệp có thế mạnh gì về cơ sở vật chất, nhà xưởng, trang thiết bị kỹ
thuật.
-Khả năng phát triển sản phẩm mới, đổi mới dây chuyền công nghệ, hệ thống
phân phối.
-Chất lượng sản phẩm.
-Khả năng đối ngoại: khả năng liên doanh với các doanh nghiệp khác hoặc liên
doanh với nước ngoài, hoặc sử dụng sự trợ giúp của các tổ chức trong cạnh tranh.
Trang 7
-Khả năng tài chính: Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý chi phí, huy
động vốn và thanh toán các nghĩa vụ tài chính.
-Sự thích nghi của tổ chức: Tổ chức của doanh nghiệp có mềm dẻo để thích ứng
với sự thay đổi của môi trường không? Hệ thống quyền lực lãnh đạo và tổ chức hành
chính có thích hợp với các qui tắc trong lĩnh vực hoạt động không?
-Khả năng tiếp thị: Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào việc cố gắng cung
cấp nhiều giá trị hơn cho khách hàng bằng cách tập trung thỏa mãn các nhu cầu của
khách hàng, phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ và phân phối
sản phẩm. Các doanh nghiệp Việt Nam ít khi nhận ra tầm quan trọng của việc tập trung
vào khách hàng và tiếp thị sản phẩm của mình. Một số doanh nghiệp gần như hoàn toàn
thụ động trong tiếp cận thị trường và định hướng chiến lược khách hàng.
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Theo Micheal Porter thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp gồm bốn yếu tố :
(1)
Các yếu tố của bản thân doanh nghiệp: Bao gồm các yếu tố về con người:
chất lượng, kỹ năng; các yếu tố về trình độ như khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm thị
trường; các yếu tố về vốn. Các yếu tố này có thể chia thành 2 loại:
một là các yếu tố cơ
bản như: môi trường tự nhiên, địa lý, lao động;
hai là các yếu tố nâng cao như: thông tin,
lao động có trình độ cao…
Trong đó, yếu tố thứ hai có ý nghĩa quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Chúng quyết định những lợi thế cạnh tranh ở độ cao và những công nghệ có tính
độc quyền. Trong dài hạn thì đây là yếu tố có tính quyết định, phải được đầu tư một cách
đầy đủ và đúng mức.
(2) Nhu cầu của khách hàng: đây là yếu tố có tác động rất lớn đến sự phát triển
của doanh nghiệp. Thông qua nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp có thể tận dụng
được lợi thế theo quy mô, từ đó cải thiện các hoạt động kinh doanh và dịch vụ của mình.
Nhu cầu của khách hàng còn có thể gợi mở cho doanh nghiệp để phát triển các loại hình
sản phẩm và dịch vụ mới. Các loại hình này có thể được phát triển rộng rãi ra thị trường
bên ngoài và khi đó doanh nghiệp là người trước tiên có được lợi thế cạnh tranh.
(3) Các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ: sự phát triển của doanh nghiệp
không thể tách rời sự phát triển các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ như: thị trường tài
chính, sự phát triển của công nghệ thông tin…Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ
thông tin, các ngân hàng có thể theo dõi và tham gia vào thị trường tài chính 24/24 giờ
trong ngày.
Trang 8
(4) Chiến lược của doanh nghiệp, cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh : sự
phát triển các hoạt động doanh nghiệp sẽ thành công nếu được quản lý và tổ chức trong
một môi trường phù hợp và kích thích được các lợi thế cạnh tranh của nó. Sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp sẽ là yếu tố thúc đẩy sự cải tiến và thay đổi nhằm hạ thấp chi phí,
nâng cao chất lượng dịch vụ.
Trong 4 yếu tố trên, yếu tố (1) và (4) được coi là yếu tố nội tại của doanh nghiệp,
yếu tố (2) và (3) là những yếu tố có tính chất tác động và thúc đẩy sự phát triển của
chúng. Ngoài ra còn hai yếu tố mà doanh nghiệp cần tính đến là những cơ hội và vai trò
của Chính phủ. Vai trò của chính phủ có tác động tương đối lớn tới khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp nhất là trong việc định ra các chính sách về công nghệ, đào tạo, trợ
cấp.
Trong khuôn khổ luận văn này, tôi chỉ xin phân tích, đánh giá khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trên 2 yếu tố (1) và (4), tức chỉ đào sâu phân tích cho các yếu tố
nội tại của doanh nghiệp.
1.3.
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Năng lực cạnh tranh của một NHTM là khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả các
lợi thế so sánh, để giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh với các NHTM khác.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, người ta có thể dựa vào
ba nhóm chỉ tiêu sau đây:
(1)
Nhóm chỉ tiêu cấu thành năng lực cạnh tranh của NHTM: bao gồm

Các chỉ tiêu đánh giá năng lực quản lý, phát triển nguồn nhân lực
 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực công nghệ ngân hàng
 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính, mức độ rủi ro hoạt động

Các chỉ tiêu phản ánh phạm vi, chất lượng sản phẩm - dịch vụ, uy tín, giá trị
thương hiệu

Các chỉ tiêu đánh giá năng lực hệ thống và mạng lưới phân phối.
(2)
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh cơ chế, chính sách sử dụng và phát triển các
lợi thế so sánh của một NHTM:

Các chỉ tiêu phản ánh hiệu lực và hiệu quả của chính sách phát triển và sử
dụng hợp lý nguồn nhân lực.

Các chỉ tiêu phản ánh hiệu lực, hiệu quả và mức độ an toàn của chính sách
phát triển công nghệ ngân hàng.
 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu lực và hiệu quả của chính sách phát triển và sử
dụng hợp lý năng lực tài chính

Các chỉ tiêu phản ánh hiệu lực và hiệu quả của chính sách phát triển và sử
dụng hợp lý hệ thống phân phối sản phẩm – dịch vụ.

Các chỉ tiêu phản ánh hiệu lực và hiệu quả của chính sách phát triển và sử
dụng hợp lý giá trị thương hiệu.
(3)
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh kết quả thực hiện chính sách cạnh tranh của
một NHTM: bao gồm :

Mức độ tăng trưởng của Tài sản Có, thị phần tăng thêm hoặc tỷ lệ tăng thêm
khách hàng.

Tỷ trọng thu nhập từ các sản phẩm dịch vụ mới trong tổng thu nhập của
NHTM.
Thu nhập tăng thêm nhờ các biện pháp cạnh tranh.

Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của NHTM











Chất lượng cao:
- Chất lượng nhân viên.
- Thủ tục giao dịch.
- Độ an toàn chính xác.
Liên tục đổi mới:
- Dịch vụ mới
- Địa điểm cung ứng mới.
- Công nghệ tiên tiến
Thỏa mãn khách hàng:
- Tiện ích tối ưu.
- Dịch vụ đa dạng
- Kênh phân phối rộng.
- Quan hệ khách hàng tốt
Kinh doanh có hiệu quả:
- ROE
- ROA
- Chi phí/thu nhập.
- Chiến lược dài hạn.
SỨC CẠNH
TRANH NHTM.

1.4. Khả năng cạnh tranh của các NHTM nước ta và hội nhập tài chính quốc tế.
1.4.1 Các Ngân hàng Việt Nam hội nhập thị trường tài chính quốc tế là một quá
trình phát triển tất yếu.
Đất nước chúng ta đang tồn tại và vận động trong mối quan hệ tương tác với tất cả
các nước trên thế giới, chúng ta không thể tách mình khỏi mối liên hệ này, chính vì vậy
nền kinh tế của nước ta cũng phải gắn kết với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế
giới, chịu sự chi phối và phân công lao động quốc tế, tham gia vào các tổ chức quốc tế
thế nên chúng ta phải tuân theo các luật lệ, các qui định chung do các tổ chức quốc tế đề
Trang 9
Trang 10
Chúng ta đã công nhận “Hội nhập là con đường bắt buộc và duy nhất” thì khi
tham gia tất phải tuân thủ theo những nguyên tắc chung sau:
-Mở rộng khái niệm thương mại, trước đây chỉ có thương mại hàng hóa mà ngày
nay thương mại phải bao gồm tất cả các loại hình dịch vụ như : ngân hàng, tài chính, bảo
hiểm, viễn thông, vận tải, du lịch, tư vấn, đầu tư, bản quyền, sở hữu trí tuệ…
-Giảm thiểu và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
-Nhà nước quản lý doanh nghiệp bằng biện pháp sử dụng thuế suất thay cho việc
sử dụng các biện pháp xử lý hành chính như hiện nay, trừ một số lĩnh vực như bảo vệ
môi trường, vệ sinh, giữ gìn bản sắc dân tộc…
-Nhà nước không bao cấp cho doanh nghiệp.
-Mở rộng cửa đón các nhà đầu tư nước ngoài vào kinh doanh, tạo một sân chơi
bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước, hành lang pháp lý rõ ràng và
công khai.
Như vậy, ngành ngân hàng Việt Nam cũng phải tuân theo các nguyên tắc trên.
Đây là con đường mà chúng ta có thể kế thừa từ những thành thành tựu của các nước đi
trước, đi tắt đón đầu, rút ngắn giai đoạn phát triển để đuổi kịp các nước trung bình và sau
đó bắt nhịp kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
1.4.2 Đặc điểm của ngành dịch vụ tài chính trong quá trình toàn cầu hóa.
Ngành dịch vụ tài chính là một ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế hiện
đại. Trong xu thế phát triển chung của xã hội, ngành này có vai trò ngày càng lớn mạnh
và không ngừng phát triển trong hầu hết các nền kinh tế cả phát triển cũng như đang phát
triển.
Một đặc điểm quan trọng trong xu hướng tự do hóa nền kinh tế là ngành dịch vụ
tài chính trở thành một ngành lớn trong nền kinh tế hiện đại. Nó được phản ánh bằng tỷ
lệ tạo ra việc làm và tỷ lệ đóng góp cho GDP của nhiều nước. Ở một số nước như Pháp,
Canada, Nhật Bản…trong những năm gần đây, tỷ lệ lao động trong ngành dịch vụ tài
chính trong tổng số lao động tăng lên khoảng 25%, tỷ lệ dịch vụ tài chính trong GDP
cũng gia tăng đáng kể. Tất cả các nước công nghiệp hóa đạt được tỷ lệ dịch vụ tài chính
Trang 11
Đặc điểm khác trong xu hướng hội nhập là thị trường tài chính đang ngày càng
mang tính toàn cầu. Mức tăng trưởng của các hoạt động tài chính quốc tế thậm chí còn
nhanh hơn mức tăng trưởng của thị trường tài chính trong nước. Giá trị phát hành chứng
khoán tăng từ 100 tỷ USD năm 1987 lên trên 500 tỷ USD năm 1996, đưa hoạt động này
trở nên quan trọng hơn cả hoạt động cho vay quốc tế (đạt 400 tỷ USD năm 1996). Các
giao dịch kỳ hạn về lãi suất, tiền tệ và chỉ số chứng khoán tăng lên tới 10 nghìn tỷ USD
vào năm 1996. Mặc dù, phần lớn họat động trên thị trường tài chính quốc tế tập trung tại
các nước công nghiệp nhưng các nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi đang
ngày càng nổi lên là các nước có sức hút đối trong nền kinh tế thế giới.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế Giới cho thấy, một nửa trong số 60 nước
đang phát triển được nghiên cứu, đã đạt mức độ hội nhập của ngành tài chính từ trung
bình đến cao vào đầu những năm 1990. Ngoài ra, các nền kinh tế đang chuyển đổi cũng
ngày càng sử dụng đến nguồn vốn quốc tế mặc dù giá trị còn tương đối nhỏ. Tầm quan
trọng ngày càng lớn của thị trường vốn với vai trò là một công cụ tài trợ cho các nền kinh
tế đang phát triển cho thấy rằng thị trường này ngày càng mở cửa.
1.4.3 Hoạt động của NHTM trong bối cảnh toàn cầu hóa thị trường tài chính.
1.4.3.1 Quy mô của các ngân hàng ngày càng lớn mạnh.
Toàn cầu hóa buộc các tổ chức tài chính phải cơ cấu lại theo hướng sát nhập và hợp
nhất nhằm làm tăng sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, các hình thức khác như góp vốn, mua
cổ phần, liên doanh liên kết, ký thỏa thuận hợp tác nhằm mục tiêu tăng quy mô vốn tự
có, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Để có quy mô lớn, Ngân hàng phải mở rộng mạng lưới khách hàng bằng cách vươn
tới những thị trường mới. Nhiều ngân hàng trên thế giới đã vươn khỏi thị trường địa
phương, thôn tính các ngân hàng nhỏ để trở thành ngân hàng tầm cỡ quốc gia. Tuy nhiên,
việc tăng quy mô của các ngân hàng phải thỏa mãn các yêu cầu: giảm thiểu chi phí cố
định nhờ hợp lý hóa tổ chức sản xuất sau khi hợp nhất; các khoản đầu tư vào trang thiết
bị công nghệ mới đòi hỏi chi phí lớn; đồng thời phải đa dạng hóa sản phẩm nhằm duy trì
khả năng cạnh tranh.

Trang 12
1.4.3.2 Công nghệ ngân hàng ngày càng phát triển.
Toàn cầu hóa tạo điều kiện mở rộng thị trường nội địa, các hàng rào bảo hộ dần
được xóa bỏ tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
Điều này bắt buộc các TCTD cần chú trọng áp dụng những công nghệ mới nhất, cải tiến
sản phẩm, tạo điều kiện kinh doanh trên quy mô lớn, nâng cao chất lượng và độ an toàn.
Những năm gần đây các ngân hàng ngày càng sử dụng nhiều hệ thống hoạt động
điện tử thay thế cho hoạt động dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong việc nhận
tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng.
1.4.3.3 Sản phẩm dịch vụ của ngân hàng ngày càng đa dạng.
Trong những năm gần đây, quá trình mở rộng danh mục dịch vụ đã tăng tốc dưới
áp lực cạnh tranh gia tăng từ những tổ chức tài chính khác, từ nhu cầu của khách hàng, từ
sự thay đổi công nghệ, từ sự nới lỏng về tài chính và sự tăng trưởng nhanh của hoạt động
thương mại.
Xu hướng đa dạng hóa dịch vụ có hai đặc điểm nổi bật là:
- Thứ nhất, những chức năng độc quyền của ngân hàng ngày càng thu hẹp, đồng
thời ngân hàng cũng dần thâm nhập vào chức năng hoạt động của các tổ chức tài chính
khác như môi giới chứng khoán, kinh doanh bất động sản và bảo hiểm.
- Thứ hai, các sản phẩm dịch vụ mới của ngân hàng chủ yếu là các dịch vụ thu
phí. Các dịch vụ phi tín dụng ngày càng phát triển xuất phát từ việc mở rộng thương mại
quốc tế, phát triển thị trường tài chính.
Các dịch vụ truyền thống của ngân hàng như: mua bán trao đổi ngoại tệ, chiết
khấu thương phiếu và cho vay thương mại, nhận tiền gửi, bảo quản vật có giá, tài trợ các
hoạt động của chính phủ, cung cấp các tài khoản giao dịch, cung cấp dịch vụ ủy thác.
Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây như cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính,
quản lý tiền mặt, dịch vụ thuê mua thiết bị, cho vay tài trợ dự án, bán các dịch vụ bảo
hiểm, cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán…
1.4.3.4 Rủi ro gia tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng giảm.
Trong bối cảnh hội nhập tài chính, việc có nhiều ngân hàng tham gia trên một thị
trường sẽ là rủi ro lớn đối với một ngân hàng nhất là khi ngân hàng đó không hiểu rõ đối
thủ và không xác định được những lợi thế riêng để giành thị phần cho mình.
Sự gia tăng về cạnh tranh sẽ dễ dẫn đến việc các ngân hàng phải gia tăng các chi
phí vốn. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng phải tăng các khoản dự phòng rủi ro. Chính vì
vậy tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng sẽ có xu hướng giảm.
Trang 13
1.5 Tác động của hội nhập đối với khả năng cạnh tranh của hệ thống NHTM VN.
1.5.1 Những lợi ích
Hội nhập thực chất là đấu tranh để giành lại thị trường hàng hóa, vốn, công nghệ
nhằm tận dụng các tiềm năng bên ngoài, kết hợp với việc khai thác tối đa nội lực nhằm
không ngừng nâng cao sức mạnh tiềm lực kinh tế của quốc gia.
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn, như:

Đáp ứng các điều kiện hội nhập và thực hiện cam kết với các tổ chức thương
mại toàn cầu cũng như các nước trong khu vực, với các cam kết ngày càng phức tạp và
chặt chẽ hơn theo xu hướng nới lỏng các hạn chế, tiến tới mở cửa và tự do hóa các giao
dịch. Ngành ngân hàng cần phải có những cải cách sâu rộng hơn, triệt để hơn nhằm đem
lại hiệu quả và lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam. Như vậy, Việt Nam có cơ hội để tăng
cường sức mạnh, phát triển hệ thống ngân hàng trên các lĩnh vực như vốn, kinh nghiệm,
quản lý, điều hành hiện đại hóa công nghệ và tăng cường các dịch vụ ngân hàng mới;
qua đó, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng hiện đại cho một nền kinh tế
mở.
 Hội nhập quốc tế về ngân hàng là cơ sở và tiền đề quan trọng cho việc hội
nhập quốc tế về thương mại và dịch vụ, đầu tư và các loại hình dịch vụ khác. Nó cũng
tạo điều kiện khơi thông các kênh luân chuyển vốn từ bên ngoài vào thị trường Việt
Nam. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho các NHTM, các tập đoàn kinh tế Việt Nam đầu
tư ra nước ngoài, qua đó nâng cao vị thế quốc tế của ngân hàng Việt Nam trong các giao
dịch tài chính quốc tế.
 Hội nhập quốc tế cùng với việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong hoạt
động ngân hàng sẽ nâng cao được tính minh bạch và hiệu quả của toàn hệ thống, qua đó
góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô.
 Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy quá trình cải cách ngân hàng Việt
Nam, kiện toàn hệ thống văn bản pháp luật nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng.
Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế trong nước cùng với sự gia tăng về quy mô hoạt
động của các Ngân hàng nước ngoài sẽ làm cho thị trường hấp dẫn hơn, thu hút nhiều
hơn vốn đầu tư của nước ngoài, nhờ đó thị trường tài chính Việt Nam sẽ phát triển mạnh
mẽ hơn.
1.5.2 Những thách thức và rủi ro:

Mở cửa hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng là chấp nhận cơ chế cạnh
tranh khốc liệt. Do xuất phát điểm thấp về chất lượng dịch vụ, khả năng hạn chế về
Trang 14
 Hệ thống ngân hàng Việt Nam qua nhiều năm hoạt động vẫn còn mang nặng
tư tưởng được nhà nước bao cấp, cơ chế hành chính “xin cho”. Để thoát khỏi cơ chế này
đòi hỏi một quá trình cải cách, đổi mới kiên quyết và sự nỗ lực của hệ thống ngân hàng.
Do vậy, cần một thời gian để đổi mới một cách căn bản cơ chế, hệ thống quản lý ngân
hàng theo hướng chấp nhận ngày càng cao xu thế tất yếu của hội nhập.
 Mức độ rủi ro cao hơn, nhất là rủi ro quốc tế. Mở cửa hội nhập quốc tế trong
lĩnh vực ngân hàng có nghĩa là gia tăng sự giao dịch với bên ngoài với quy mô ngày càng
lớn, do vậy càng nhiều rủi ro hơn. Việc mở cửa và tiến tới tự do hóa trong lĩnh vực dịch
vụ ngân hàng ở Việt Nam cùng với sự phát triển các hoạt động của tổ chức tín dụng nước
ngoài tại Việt Nam đặt ra các thách thức về mặt điều hành, quản lý và giám sát của ngân
hàng Nhà nước.
 Một hệ quả tất yếu về mặt xã hội do hội nhập quốc tế là thất nghiệp. Việc mở
cửa thị trường, chấp nhận cạnh tranh sẽ dẫn đến phải cắt giảm chi phí, nhất là chi phí
quản lý và giảm biên chế. Ngoài ra, hội nhập cho phép tiến cận với những công nghệ
hiện đại song lại phải giải quyết mâu thuẫn giữa trình độ yếu kém của đội ngũ cán bộ với
công nghệ khoa học tiên tiến.
1.6 Hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam .
1.6.1 Lịch sử hình thành Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Những năm 1960, sau thời kì khôi phục và cải tạo kinh tế ở Miền Bắc, Việt Nam
đã có quan hệ với 141 ngân hàng ở 34 nước. Trong lúc này, NHNN vừa có chức năng
quản lý, vừa có chức năng kinh doanh ngoại tệ nên gặp phải rất nhiều bất cập trong
nghiệp vụ Ngân hàng ngày càng đa dạng và phức tạp.
Chính vì vậy, Nhà nước ta thấy rõ, cần phải tách bạch giữa chức năng quản lý tiền
tệ với hoạt động kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng cơ sở. Điều này đòi hỏi phải thành lập
một ngân hàng thực hiện đầy đủ các mặt nghiệp vụ và kinh doanh đúng thể thức ngân
hàng quốc tế, có tư cách pháp nhân độc lập, hoạt động dưới sự chỉ đạo của NHNN Trung
ương.
Ngày 30.10.1962, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký quyết
định thành lập Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Nhiệm vụ của NHNT là kinh doanh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét