Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt - may VIệT NAM

nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản
nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt Nam
xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm 90% kim
ngạch của mảng thị trờng không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác,
xuất sang Nhật thờng là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía Bắc gia
công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trờng đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus nh đầu t tốt,
nâng cao đợc chất lợng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững thị
hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trờng này.
1.3. Thị trờng Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
Mỹ là thị trờng khá hấp dẫn, lý tởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ khá
đông, hiện có 253 triệu ngời, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc dân
cao. Do đó ngời Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may
nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD nh năm 1999 là 34 tỷ USD.
Nguồn nhập chủ yếu là từ các nớc Châu á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu á của
Hoa Kỳ.
Nớc Giá trị ( tỷ USD)
Trung Quốc 6,1
Hồng Kông 5
Hàn Quốc 1,8
Đài Loan 2,3
Các nớc ASEAN khác 4,5
(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)
Tháng 2/1997 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1997 Mỹ bỏ cấm vận
viện trợ và tháng 7/1998 Mỹ bình thờng hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy
nhiên, chúng ta đang mong chờ đợc hởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The Most
Favourel Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là điều
kiện chìa khoá để xâm nhập thị trờng Mỹ.
Phải nói rằng, thị trờng may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp dẫn
ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ phong
cách của ngời Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt Nam sự lạc
quan đó vẫn nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ cha dành cho Việt Nam MFN và nh vậy
5
hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất cao, từ 40-49%
giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nớc khác đợc hởng quy chế
này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không tthuộc về các doanh
nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nớc cha có mối quan hệ bạn hàng
bang giao chặt chẽ nên việc thanh toán còn là một vấn đề bất cập. Trờng hợp
này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ muốn trả tiền cho Công ty may Phơng
Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu
Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho phép vừa mở vừa nhận tiền và họ
phải trả bằng tiền mặt.
Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ mới chỉ là mức tơng đối. Năm 1997 đạt 2 triệu USD, năm 1998 đạt 5
triệu, năm 1999 đạt 25 triệu và năm 2000 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ là
những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trờng Mỹ và khả năng xuất khẩu
của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập đợc vào thị trờng đầy
triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều nhà quản lý
và cả phía doanh nghiệp.
1.4. Thị trờng SNG và một số nớc Đông Âu
Trong những năm trớc khi các nớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì tỷ
trọng kim ngạch của ta vào thị trờng này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai trò
quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài đó
nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt đợc thị hiếu, nhu cầu của ngời tiêu dùng
ở khu vực này và ngời tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may mặc của
ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nớc XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch hàng
may mặc của ta vào thị trờng này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc của ta
vào thị trờng này chủ yếu do các thơng gia buôn theo từng chuyến còn về phía
doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do cha tìm đợc phơng thức thanh toán hợp lý
thây thế cho phơng thức hàng đổi hàng trớc đây.
Nh vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trờng truyền thống mà mấy năm
vừa qua chúng ta để vợt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp cần
thiết để nối lại quan hệ với thị trờng không kém phần hấp dẫn này. Các doanh
nghiệp cần mạnh dạn triển khai phơng thức thanh toán mới phát huy lợi thế vốn
có của ta trong nhiều năm qua trên thị trờng này.
1.5. Thị trờng các nớc ASEAN
6
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình
thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức.
Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá đợc lu chuyển tự do giữa các nớc
ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc các
doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phơng thức
quản lý hiện đại và phải tạo đợc cho mình một nền tảng vững chắc về mọi mặt
để trụ vững trên thơng trờng. Sản phẩm có đợc thị trờng chấp nhận hay không
quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dới sức ép đó sẽ xoá bỏ đi đợc các Công
ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần
phải lột xác .
Bù lại, thị trờng ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu ngời
hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là
một thị trờng lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trờng có nền văn
hoá tơng đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tơng đối giống nhau, điều
này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xâm nhập
dế ràng hơn.
1.6. Thị trờng trong nớc
Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có
những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại
khoảng trống sau lng mình đó là thị trờng nội địa. Hiện nay, dân số Việt Nam
trên 75 triệu ngời, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750 triệu USD/
năm (10 USD/ngời/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp dẫn đối với bất
kỳ nhà đầu t nào.
Thực tế trên thị trờng Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của nớc
ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vợt khả năng cung cấp trong nớc. Do vậy, các
doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cờng sản xuất hàng xuất khẩu, một mặt
phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nớc chỉ có biện
pháp nh giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc đáp ứng
tiêu dùng trong nớc. Tránh bỏ trống thị trờng ngay trong tầm tay.
Trên đây là một số thị trờng lớn mà chúng ta đã và đang có đợc. Cần phải có
biện pháp và định hớng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để. Mặt khác
phải tăng cờng mở rộng và tìm kiếm những thị trờng đang bị bỏ ngỏ, đây cũng
là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp cận thị trờng
7
Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ.
2. Xu hớng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.
Thị trờng thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ chức
và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:
- Các định chế kinh tế nh WTO. GSP. MFA, các công ớc về lao động, về sở
hữu trí tuệ
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng.
- Các hiệp định về hàng hoá nh về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở ,
hàng dệt may
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris,
Singapore, Chicago
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức
du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lới và
trung tâm dịch vụ tiêu thụ
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đa lại hiệu quả giúp cho th-
ơng mại quốc tế đợc ổn dịnh và phát triển. Trong tơng lai các định chế này sẽ
không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và khu
vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trờng thế giới nh vậy đã ảnh hởng tới việc sản
xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Nh khu vực EU đã có các mức thuế
u đãi đối với hàng dệt may của các nớc đang phát triển xuất khẩu vào thị trờng
này. Hiệp định các nớc EU đã có hiệp định về hàng may mặc với từng nớc cụ
thể, dới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nớc có nền công
nghiệp may phát triển và các nớc đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trờng thế giới nh hiện nay, tình hình sản xuất
và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên một
số đặc điểm sau:
+ Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn
8
ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký
hiệp định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 2001-2003, điều đó sẽ mở ra một
triển vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nớc ta.
+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đợc cải thiện một cách cơ bản, song quy
chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi cha chính xác. Nếu
chế độ này đợc áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trờng hàng dệt may cho
Việt Nam.
+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho Trung
Quốc vào 1/7/2000 vừa qua có thể ảnh hởng đến kinh tế thị trờng khu vực.
Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại
Việt Nam nh vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng kinh
tế ở Châu á vừa qua làm ảnh hởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng nh khả năng
sản xuất trên thị trờng các mặt hàng nói chung và hàng may mặc nói riêng.
+ Trớc đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp
(cat 21) và sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hớng chung là giảm
cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác nh quần (cat 78), áo (cat 161).
+ Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao
năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng
may mặc đã đi vào hoạt động.
+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng nớc
ngoài phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời gian
tới, những xí nghiệp nào làm chất lợng tốt, đảm bảo thời gian giao hàng đúng
hạn thì khách hàng mới đặt hàng.
+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hởng tới giá thành
sản phẩm quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm
bán ra lại hạ mà giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do
yêu cầu của đời sống và lợng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó
đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nớc ngoài.
+ Bộ Thơng mại có chủ trơng sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các
doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông t liên bộ Thơng mại
- Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt may
9
xuất đi EU. Nhà nớc cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bớc
nghiên cứu các kiểu mốt đợc thịnh hành trên các thị trờng thế giới và trong n-
ớc.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dới hình thức gia công,
xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung
cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có
tốc độ tăng trởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994. Đây là
con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn
vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD trên
tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194 triệu USD trên
tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này không
mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể
đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu t không ngừng của các doanh nghiệp,
xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phơng đều có xí nghiệp may ra đời, các xí
nghiệp may nh : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty may Đức
Giang, Công ty may Nhà Bè không ngừng cải tiến trang thiết bị, đào tạo đội
ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm chất lợng
cao.
Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã
thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công ty
may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu t của các doanh nghiệp Việt Nam
các Công ty nớc ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu t vào ngành
may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động thu kết
quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành may mặc
Việt Nam. Quy mô sản xuất đợc mở rộng, tay nghề công nhân không ngừng đ-
ợc nâng lên, mẫu mã đợc cải tiiến phong phú, đa dạng. Các yếu tố này gây nên
sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác.
3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất
hàng may mặc.
10
Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển
mạnh mẽ và đợc nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các Công
ty , xí nghiệp may từ Trung ơng đến địa phơng đều trởng thành đáng kể. Năm
2000 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 2001 con số này sẽ
là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về
số lợng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất, chất lợng,
đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bớc đợc nâng cao. Tất cả những điều
này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của ngành may Việt Nam khi vơn ra thị
trờng thế giới.
Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết
mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nớc thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn
các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thờng xuyên học hỏi kinh nghiệm từ các
cơ sở may xuất khẩu trong nớc và ngoài nớc. Thờng xuyên coi trọng công tác tự
đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh những vấn
đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hớng đầu t sai lầm
mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi đợc Cụ thể trong thực tiễn hoạt
động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau và cần đợc nhìn
nhận lại một cách nghiêm túc.
Trong đầu t mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do
nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nớc ngoài
lợi dụng đa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn chế ; nguy
cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế kỷ. Bên cạnh
đó công tác lập luận chứng đầu t còn phiến diện, thiếu đồng bộ. Có trờng hợp
khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập luận chứng mua
thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng đợc, hoặc thiếu sự phối hợp
giữa các khâu trong đầu t dẫn đến máy móc thiết bị nhập về rồi mới tính chất
đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh
hởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay đầu t không đợc trả đúng hạn
thậm chí có trờng hợp mất khả năng chi trả.
Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trờng hợp Công tylàm hàng
gia công trong nớc do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu nh : định mức
tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm giao nhận, ph-
ơng thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra những kết cục
tranh chấp đáng tiếc.
11
Nh chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi
tham gia thị trờng trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó tăng
cờng thực hiện chiến lợc sản phẩm là con đờng thiết thực nhất, thờng xuyên
cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lợng sản phẩm. Hãy để
chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ lực nào. Đây cũng
là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên trờng quốc tế.
Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nớc ngoài cũng
đang đợc coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần đợc chuẩn chu đáo
bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt đợc lợi
ích lớn trớc hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi khách hàng
đang có rất nhiều mối hàng nhng do nghệ thuật thuyết phục của ta mà họ vẫn
chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong đàm phán
rất cần thiết phải hiểu rõ đối phơng (về văn hoá, tài chính, thái độ, phong tục );
tuỳ theo từng đối tợng mà sử dụng các chiến lợc đàm pháp kiểu cứng, chiến lợc
đàm phán kiểu mềm hay chiến lợc đàm phán kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải
chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm phán gì ? chiến thuật tri thức hay
chiến thuật tâm lý.
Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trờng nớc ngoài
của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song hai chiến
lợc đó là : chiến lợc marketing và chiến lợc sản phẩm một cách tốt nhất. Thực
hiện chiến lợc marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của Công ty đợc mọi ng-
ời quan tâm, chú ý. Khi sản phẩm đã đợc nhiều ngời biết đến cần tiếp tục củng
cố lòng tin và uy tín với khách hàng bằng chính với yếu tố nội tại sản phẩm,
nhất là với hàng may mặc cần luôn luôn tạo ra tính đặc thù, có nh vậy mới
mong duy trì đợc trên thị trờng một cách bền vững. Có câu nói thấy triết lý mà
bao hàm toàn bộ nội dung trên, đó là : Hãy tạo dựng uy tín so cho khách hàng
sẽ mua sản phẩm của Công ty nh một thói quen.
Ngoài ra kinh nghiệm xuất khẩu một số nớc cũng cho thấy: trong thời gian
mới đầu các đơn vị tham gia xuất khẩu may mặc còn gặp nhiều hạn chế về vốn,
công nghệ, thị trờng do đó cần phải tăng cờng chính sách hỗ trợ xuất khẩu từ
phía Nhà nớc. Các nớc đã đi lên từng bớc, từ chỗ nhận hàng gia công đến xuất
khẩu trực tiếp, từ chỗ chỉ xuất đợc một số lợng nhỏ với những mặt hàng may
mặc thấp cấp tới việc xuất đi những sản phẩm cao cấp nhất đạt giá trị cao mà cụ
12
thể là các nớc châu á đã làm đợc điều đó nh: Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản,
Thái Lan với Việt Nam hiện nay sản phẩm may mặc xuất khẩu chủ yếu dới
dạng nhận gia công do đó thị trờng xuất khẩu của ngành may Việt Nam thực
chất là của ngời đặt ra công. Việc phân phối sản phẩm hoàn chỉnh đi thị trờng
nào là quyền của họ. Nh vậy dới hình thức này Việt Nam sẽ bị tớc đi rất nhiều
quyền lợi, vừa hạn chế sử dụng nguyên liệu trong nớc vừa mất đi khả năng xâm
nhập thị trờng cha kể đến giá trị lợi nhuận xuất khẩu thu về là rất nhỏ. Do đó
Nhà nớc cần có chính sách tập trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là việc làm
thiết thực và cấp bách.
Có nhiều nớc đã thực hiện thành công bớc nhảy này bằng con đờng liên
doanh liên kết, thu hút đầu t nớc ngoài vào lĩnh vực may mặc bớc đầu tạo sức
mạnh bứt phá về công nghệ, kiểu cách, ấn tợng sản phẩm. Phơng pháp phát huy
nội lực kết hợp với sử dụng ngoại lực cần đợc chúng ta xem xét vận dụng để
sớm tìm ra hớng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may Việt Nam trong thị tr-
ờng may thế giới.
13
I. Chơng II
II. Thực trạng kinh doanh xuất khẩu
hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt - may
VIệT NAM giai đoạn 1998-2001.
I. Những nét khái quát về Tổng Công ty Dệt-May ViệT
Nam.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty
Dệt-may Việt Nam:
Ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam ra đời từ những năm 58 ở miền Bắc
và những năm 70 ở miền Nam, nhng mãi tới năm 1975 sau khi thống nhất đất n-
ớc thì ngành mới có sự phát triển đáng kể.
Năm 1978, Liên hiệp các xí nghiệp dệt toàn quốc đợc thành lập trên cơ sở
thống nhất Liên hiệp các xí nghiệp Dệt phía Bắc và Tổng Công ty Dệt phía
Nam, đã phát huy vai trò tích cực trong công tác quản lí ngành kinh tế kĩ thuật,
tạo ra những khả năng liên kết sản xuất giữa hai miền.
Năm 1987-1989, từ tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp Dệt chuyển thành Liên
hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt để kết hợp sản xuất và kinh doanh xuất nhập
khẩu. Đến ngày 5/3/1996 Liên hiệp sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt đợc chuyển
thành Tổng Công ty Dệt Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là:
- Trung tâm thơng mại của ngành dệt, lấy xuất nhập khẩu là trung tâm hoạt
động để thúc đẩy sự phát triển của ngành.
- Làm đầu mối của ngành kinh tế kĩ thuật và là hạt nhân của hiệp hội Dệt
Việt Nam.
Với mô hình này, không đáp ứng đợc yêu cầu củng cố và phát triển ngành
Dệt, không phát huy đợc sức mạnh tổng hợp, không tạo đợc thế và lực để thúc
đẩy sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị định 388/HĐBT ra đời tạo cho các cơ
sở phát huy lợi thế chủ động nhng lại thiếu sự liên kết với nhau thành sức
mạnh, xuất hiện việc tranh mua tranh bán cục bộ bản vị trong sản xuất kinh
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét