Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

Động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức

công nghệ là những ngành có tác động to lớn tới sự phát triển kinh tế của đất
nước.
Năm 1996, OECD đưa ra định nghĩa: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh
tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống” .
Năm 2000, APEC cũng quan niệm: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong
đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự
tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.
Theo GS.TS Hoàng Xuân Phương thì có hai cách định nghĩa về nền kinh tế tri
thức:
Thứ nhất, đó là nền kinh tế của các tri thức hay còn gọi là nền quản trị
tri thức, theo đó những hiểu biết hay công nghệ kết tinh từ quá trình đầu tư và
lao động trở thành những sản phẩm cụ thể, những mặt hàng có thể trao đổi,
buôn bán, sang nhượng hay góp vốn trong các thị trường.
Thứ hai, đó là nền kinh tế dựa trên tri thức. Ở đây sự hiểu biết trở thành
công cụ, một thứ nhà máy vô hình để sản xuất ra các thứ hàng hóa và tích thu
lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vai trò của sự hiểu biết (know-how) rất quan
trọng bởi có tính cạnh tranh cao nhờ vào khả năng phi vật thể hóa
(dematerialisation) trước ba sức ép lớn lên nền kinh tế hiện nay gồm tài
nguyên cạn kiệt, dân số gia tăng và biến đổi khí hậu.
Định nghĩa thứ hai mỗi ngày mỗi được sử dụng nhiều hơn bởi chiều
hướng chuyển đổi sang nền kinh tế mới là tất yếu và toàn cầu. Sự chuyển đổi
này bắt đầu từ các nền kinh tế với hạ tầng gồm hai thành phần là tư bản vốn
(capital) và sức lao động (labor) sang nền kinh tế được bổ sung hạ tầng thứ ba
là hệ thống tri thức (knowledge) bao gồm các hiểu biết, công nghệ và kỹ năng.
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc nước ta đã có hay đã sẵn sàng cho tiến
trình hội nhập kinh tế tri thức. Nếu xét theo định nghĩa thứ nhất thì chúng ta
chưa có và rất khó có nền kinh tế tri thức bởi yếu kém cả ba cơ sở hạ tầng.
Nhưng xét theo định nghĩa thứ hai thì người Việt Nam với tư chất
thông minh và sáng tạo đang xâm nhập nhanh chóng vào kinh tế tri thức và
tạo ra lợi nhuận tăng thêm từ quá trình chuyển đổi đó.
Tuy có nhiều cách hiểu, quan niệm khác nhau song chúng ta có thể hiểu
kinh tế tri thức một cách chung nhất là: “ Kinh tế tri thức là một giai đoạn
phát triển mới của nền kinh tế sau kinh tế công nghiệp với vai trò của sản xuất,
phân phối và sử dụng tri thức trong tăng trưởng kinh tế ngày càng trở nên
quan trọng. Tri thức đã trở thành nhân tố hàng đầu của sản xuất, vượt lên trên
các nhân tố sản xuất cổ truyền vốn và lao động”.
3. Đặc trưng của kinh tế tri thức
Thứ nhất: vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là
nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng trưởng cao; của cải được tạo ra dựa vào tri
thức nhiều hơn dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp. Công
nghệ cao, đặc biệt công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi. Khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tổng sản phẩm tăng nhanh, nhưng tổng
tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu… không tăng bao nhiêu, và số lượng
lao động trong khu vực sản xuất hàng hóa ngày càng ít đi rõ rệt.
Thứ hai: sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất
thúc đẩy sự phát triển. Kinh tế phát triển là do sáng tạo, đổi mới công nghệ,
đổi mới sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Trước đây, người ta
coi trọng những công nghệ đã chín muồi, còn bây giờ là những công nghệ
mới, bởi lẽ, cái chín muồi là cái sắp tiêu vong.
Thứ ba: công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực,
mạng thông tin phủ khắp nước và trên thế giới liên kết các tổ chức, gia đình
và quốc gia. Mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng bậc nhất trong
nền kinh tế.
Thứ tư: kinh tế tri thức là nền kinh tế học tập. Giáo dục và đào tạo được
đầu tư cao hơn hẳn so với các dự án đầu tư về cơ sở vật chất (nhà máy, công
trường…). Mọi người có điều kiện thuận lợi để học tập, không ngừng phát
triển tri thức, nâng cao kỹ năng, phát triển sức sáng tạo, thúc đẩy đổi mới. Xã
hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.
Thứ năm: kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa. Quá trình phát
triển kinh tế đi liền với quá trình kinh tế thị trường, phát triển thương mại thế
giới và quá trình toàn cầu hóa, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển. Các sản phẩm và thị trường ngày càng có tính toàn cầu. Người ta thường
gọi kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế
toàn cầu dựa vào tri thức.
Thứ sáu: kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững, trong đó, các
công nghệ sạch, tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng, chất thải công nghiệp ít
hơn, hạn chế ảnh hưởng làm ô nhiễm môi trường, bảo đảm được yêu cầu phát
triển bền vững.
II. Động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức
1. Động lực của kinh tế tri thức theo cách tiếp cận của Ngân hàng
Thế giới (WBI).
Ngân hàng Thế giới cho rằng các nền kinh tế tri thức cần dựa trên bốn
trụ cột sau:

Hình 1: Tứ trụ của nền kinh tế tri thức
Thứ nhất: Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo
và sử dụng tri thức. Một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy
tự do của tri thức, hỗ trợ đầu tư cho công nghệ thông tin và truyền thông
(CNTT&TT), khuyến khích việc làm chủ doanh nghiệp như trọng tâm của
kinh tế tri thức.
Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng
tri thức trước hết là việc của chính quyền và bộ máy lập pháp. Một thách thức
là làm sao để nâng cao được dân trí toàn xã hội. Khi dân trí được nâng cao,
người dân sẽ có thêm động lực và khả năng tìm kiếm dòng chảy tri thức, hoạt
động sáng tạo cũng như tăng xu hướng làm chủ doanh nghiệp. Vì những cán
bộ của bộ máy chính quyền và địa phương là những công dân có ảnh hưởng
nhiều hơn đến môi trường kinh tế và thể chế xã hội, việc nâng cao được quan
trí, như dân gian thường nói, là một điều hệ trọng. Những yếu kém về tri thức
của một số quan chức mà người dân đôi khi được biết như chuyện “ngực lép
xe máy”, chuyện “100% tiến sĩ”, cho thấy đây là một thách thức lớn khi ta
muốn đến nền kinh tế tri thức.
Ví dụ: GS Ngô Bảo Châu => Nhà nước ta tạo môi trường thuận lợi cho
GS hoạt động và phát triển trong nước như xây dựng viện toán học
Thứ hai: Giáo dục và đào tạo có chất lượng cao để người dân được
giáo dục và đào tạo năng lực sáng tạo, chia sẻ, và sử dụng tri thức.
Giáo dục và đào tạo là chuyện sống còn của đất nước. Đương nhiên nếu
giáo dục không làm được sứ mạng đào tạo được những người có tinh thần và
khả năng sáng tạo, sẽ không có cách nào tiến đến kinh tế tri thức. Nói riêng về
đào tạo người lao động có tri thức trong công nghiệp, nhìn theo năm nhóm
ngành:
A: Hàm lượng lao động cao và làm việc giản đơn như may mặc, giày
dép
B: Hàm lượng lao động cao và sử dụng nguyên liệu nông lâm ngư
nghiệp như chế biến thực phẩm
C: Hàm lượng tư bản cao và sử dụng tài nguyên khoáng sản như thép,
hóa dầu
D: Hàm lượng lao động cao và lành nghề, làm các sản phẩm như đồ
điện gia dụng, xe máy, bơm nước, linh kiện điện tử
E: Hàm lượng công nghệ cao và làm máy tính, công nghệ thông tin và
truyền thông, xe hơi, đồ điện tử cao cấp
Ở Đông Á, Trung Quốc tập trung vào A và lắp ráp trong D; Thái Lan và
các nước Đông Nam Á 4 có lợi thế trong B và D; Nhật Bản và các nước NIEs
giữ lợi thế ở D và đang tăng phần sản xuất bên ngoài nên Trung Quốc và một
số nước Đông Nam Á đang dịch chuyển về D. Việt Nam đang chủ yếu làm A
và B. Rõ ràng muốn chuyển dịch qua các nhóm ngành khác như C, D, và E,
chúng ta phải đối mặt với bài toán đào tạo người lao động có tri thức cao hơn,
làm được những việc ở các nhóm ngành này.
Khi đặc trưng của nền kinh tế tri thức là vốn hóa trí tuệ thì việc giáo
dục là nhân tố phát triển bền vững, hình thành ra vốn con người (human
capital). Trình độ tri thức hóa nền kinh tế một nước được xác định theo hai
tiêu chí. Thứ nhất tỷ lệ vốn con người tức giá trị các tri thức đưa vào ứng dụng
trong nền kinh tế so với giá trị các tài nguyên hữu hình phải được tăng dần.
Tiêu chí phi vật thể hóa này thường được gọi là sự thay thế nguyên tử vật chất
bằng các bit và bytes thông tin.
Tiêu chí thứ hai dựa trên tỷ lệ công nhân tri thức (knowledge workers)
so với người lao động chân tay. Ở Mỹ lực lượng công nhân tri thức gồm từ
kiến trúc sư, nhà tạo mẫu, nhân viên ngân hàng, thầy giáo, giới khoa học…
cho đến chuyên gia phân tích chính sách chiếm đến 60%. Ở nhiều nước khác
tỷ lệ này cao hơn do thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên hay do đã phát triển
một nền giáo dục cao hơn, thực dụng hơn và đa dạng từ nhà trường, học viện
đến tích lũy trải nghiệm và đào tạo, tái đào tạo.
Trái với lề lối tiếp nhận từ chương, nền giáo dục hướng tới kinh tế tri
thức đòi hỏi khả năng tranh luận, sáng tạo và thực nghiệm. Đây hẳn là một
định hướng mà giáo dục nước ta phải tính đến bởi việc tăng trưởng GDP nay
không thể tách rời trình độ công nhân. Chúng ta có thể có những công nghệ
tốt, nhưng nếu thiếu vốn con người để điều hành khai thác và nâng cao chúng
thì không thể tiếp tục duy trì khả năng cạnh tranh. Trên căn bản này Ngân
hàng Thế giới đang đầu tư cho chương trình Giáo dục hướng tới Kinh tế Tri
thức (EKE) nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế
mới này.
Ở Việt Nam đã bàn nhiều về giáo dục, đã có Nghị quyết T.Ư, đã có luật
Giáo dục, chẳng còn thiếu thứ gì, mà vẫn ì ạch. Muốn tiến nhanh và vững
trong thời đại kinh tế tri thức, ưu tiên hàng đầu phải đặt vào việc chấn hưng,
cải cách, hiện đại hóa giáo dục, và hơn nữa, phải nhanh chóng tiến tới phổ cập
đại học - chứ không chỉ dừng ở trung học cơ sở hay trung học phổ thông. Mới
nghe tưởng chừng là một mục tiêu quá xa vời, nhưng suy nghĩ kỹ hơn và nhìn
xu thế ở các nước ngay trong khu vực, chứ chưa nói tới các nước tiên tiến trên
thế giới, còn đối với Việt Nam không có cách lựa chọn nào khác nếu thật sự
muốn vươn lên nhanh bằng con đường trí tuệ. Phổ cập đại học sẽ giải quyết
được nạn thất học, nhu cầu học tập chính đáng của nhân dân, sẽ có điều kiện
tốt hơn để phát hiện và bồi dưỡng tài năng trẻ, mở rộng các cánh cửa vào kinh
tế tri thức, đồng thời là biện pháp gián tiếp giải quyết nhiều vấn đề bức xúc:
phát triển dân chủ, hạn chế và chống tội phạm, tạo công ăn việc làm ổn định.
Thứ ba là hệ thống cách tân
Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia cố vấn,
doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho
tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho
các nhu cầu của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
Xây dựng được một hệ thống cách tân là một thách thức rất lớn, tức hệ
thống các tổ chức đóng vai trò thu nhận và sáng tạo tri thức chủ yếu trong xã
hội. Việc này liên quan tới những thách thức lâu nay của ta như chất lượng
giáo dục đại học và nghiên cứu. Một khía cạnh ở đây là thách thức về tính
cách tân của các tổ chức trong xã hội. Quản trị tri thức (knowledge
management)- lý thuyết và thực tiễn về quá trình sáng tạo, thu nạp và sử dụng
tri thức để nâng cao hiệu quả của các tổ chức- là một công cụ rất đáng quan
tâm cho cuộc cách tân này.
Có thể lấy thí dụ về quản trị tri thức của các công ty Nhật Bản, được
mô hình hóa trong cuốn sách nổi tiếng của Nonaka và Takeuchi. Sự vượt lên
kỳ diệu của Nhật Bản từ hoang tàn đổ nát sau Đại chiến thế giới thứ hai là
điều đáng tìm hiểu và học tập. Khi này các công ty Nhật Bản phải vươn lên
trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Họ cần có công nghệ mới, thiết kế sản
phẩm mới, quá trình sản xuất mới, cách tiếp cận thị trường mới. Các công ty
Nhật đã thực hiện được hiệu quả quá trình sáng tạo những tri thức cần cho
phát triển kinh tế. Mọi thành viên của các công ty được khuyến khích chia sẻ
tri thức mình tích lũy được với đồng nghiệp, góp vào tài sản tri thức của công
ty, cùng nhau hợp sức tạo ra tri thức công nghệ và sản phẩm mới của công ty.
Cách họ làm dựa trên sự tương tác liên tục theo một dòng xoắn ốc không
ngừng tăng giữa các khía cạnh của tri thức ẩn và tri thức tường minh của các
cá thể, nhóm và tổ chức. Công thức của sự thành công của các công ty Nhật
Bản là: Sáng tạo tri thức > Liên tục cách tân > Ưu thế cạnh tranh
Thứ tư là hạ tầng cơ sở thông tin:
Một hạ tầng cơ sở thông tin động, từ radio đến Internet, là cần thiết để
cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến, và xử lý thông tin. Mặc dù còn những
tranh luận, giả sử ta thừa nhận bốn trụ cột này để xem ta sẽ gặp những thách
thức nào khi phải xây dựng chúng.
Công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT) là hạ tầng cơ sở để
thực hiện hầu hết các hoạt động của kinh tế tri thức, là phương tiện hữu hiệu
hỗ trợ cho ba trụ cột nêu ở trên về giáo dục và đào tạo, hệ thống cách tân, môi
trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho việc sáng tạo và sử dụng tri
thức. Thách thức trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở CNTT&TT là chuyện thời
sự của ta hiện nay khi Nhà nước đang đặt mục tiêu tăng tốc để trở thành một
nước mạnh về CNTT&TT.
Đang và sẽ sớm có nhiều bàn luận về thách thức này, nên ta không phân
tích gì ở đây, chỉ nêu hai thí dụ cho thấy CNTT&TT có thể ảnh hưởng ra sao
trong nền kinh tế tri thức, đồng thời cũng cho thấy những thách thức trong
việc đưa CNTT&TT vào hỗ trợ những hoạt động kinh tế như vậy.
Ví dụ về ngành du lịch. Không phải mọi người liên quan đến làm du
lịch của ta đều biết rằng ngày nay các du khách nước ngoài sau mỗi chuyến đi
thường viết những nhận xét để trên Web cho mọi người tham khảo, và mỗi
người trước khi quyết định đi đâu ở đâu đều tìm xem nhận xét của người khác.
Những chuyện tưởng nhỏ như cái hay điều dở tại một thắng cảnh, tại một
khách sạn xa xôi ở Việt Nam đều được lên mạng. Những chuyện như đi suốt
buổi không tìm ra nhà vệ sinh, như giá cao phục vụ dở, hơn 70% du khách
được hỏi đã nói không muốn quay lại Việt Nam, dễ dàng được biết qua
Internet, và có thể làm một lượng lớn du khách thay vì chọn Việt Nam, sẽ
chọn Thái Lan, nơi ngành du lịch thường nhận được những đánh giá tốt trên
mạng.
Ví dụ về CNTT&TT hỗ trợ con người vượt qua rào cản ngôn ngữ để
tăng hiểu biết. Tri thức loài người được diễn đạt theo các ngôn ngữ khác nhau.
May thay những chương trình dịch tự động tiếng nói và chữ viết, tuy chất
lượng chưa thật cao nhưng đang được cải thiện rất nhanh do tiến bộ của
CNTT, đã cho phép con người ở một mực độ chấp nhận được trong rất nhiều
công việc, đọc được các tài liệu hay các trang Web viết trong ngôn ngữ khác,
nghe hiểu được tiếng nói trong ngôn ngữ khác. Có được những hỗ trợ này để
người Việt hiểu được tiếng nói và chữ viết trong nhiều ngôn ngữ khác cũng là
một thách thức của CNTT&TT trong nền kinh tế tri thức.
2. Động lực của kinh tế tri thức theo cách tiếp của GS.TS Hoàng
Xuân Phương.
Trên thực tế sự chuyển mình từ nền kinh tế truyền thống với các dạng
tài nguyên là đất đai nông nghiệp, nguyên liệu công nghiệp, dịch vụ thương
nghiệp cùng với đồng vốn tư bản sang nền kinh tế mới mà tri thức con người
trở thành tài nguyên chủ đạo đang được thúc đẩy mạnh mẽ bởi ba động lực:
Hình 2 - Toàn cầu hóa, kiến thức và mạng lưới thông tin là 3 động lực phát
triển kinh tế tri thức.
Thứ nhất: Hiện tượng toàn cầu hóa
Khoảng cách giữa người với người của các nền văn hóa và giữa nước với
nước của các vùng địa lý nay rút ngắn hơn bao giờ hết nhờ những tiến bộ vượt
bậc trong hai lãnh vực giao thông (transportation) và liên lạc
(communication). Một nhu cầu xuất hiện hay một sản phẩm làm ra ở nơi này
sẽ nhanh chóng có mặt ở nơi khác, tạo nên các luồng chu chuyển và cũng mặc
nhiên hỗ trợ việc hợp lý hóa phân công lao động trên khắp thế giới.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa là bước tất yếu, có những mặt tiêu cực
cần đấu tranh chống lại, nhưng vẫn phải chấp nhận nó, chịu chơi với nó, hơn
nữa tuân thủ các luật chơi mới để tìm cách vươn lên. Mà luật chơi mới là:
ganh đua, cạnh tranh trí tuệ. Nói cách khác, sân chơi mới là kinh tế tri thức.
Vì vậy không thể phát triển kinh tế tri thức mà từ chối toàn cầu hóa,
cũng như không thể cạnh tranh nổi trong nền kinh tế toàn cầu hóa nếu không
mở được cánh cửa vào kinh tế tri thức. Những diễn biến gần đây cho thấy ta
hội nhập quốc tế mà không theo kịp họ trong kinh tế tri thức thì sẽ thua thiệt.
Toàn cầu hóa chỉ mới biểu hiện tính hệ thống của thế giới trên phương
diện kinh tế, thương mại. Còn có những biểu hiện khác của tính hệ thống của
thế giới, nhất là trong quan hệ thiên nhiên – con người mà ta phải chú ý để đối
phó kịp thời trong thời đại kinh tế tri thức. Chẳng hạn tin tức cho biết nếu các
nước giàu không thay đổi chính sách phát triển công nghiệp của họ thì tới giữa
thế kỷ XXI, với mực nước biển dâng cao dần do nhiệt độ của đất tăng lên,
hiệu ứng nhà kính, Ai Cập, Việt Nam và Ba Lan sẽ là ba nước bị thiên tai
nặng nề nhất. Trước viễn cảnh đó, các nước nghèo không thể khoanh tay ngồi
đợi thảm họa đến để rồi kêu gọi sự giúp đỡ nhân đạo của thế giới mà phải
nhanh chóng chủ động thu hẹp khoảng cách trí tuệ với các nước giàu. Chỉ có
như thế mới ngăn được xu thế các nước giàu độc quyền phát triển các ngành
công nghiệp cao, vừa sạch sẽ vừa thu lời nhiều, sử dụng toàn cầu hóa và
khoảng cách số để chuyển tất cả các ngành công nghiệp năng lượng và chế
biến ô nhiễm sang cho các nước nghèo hứng chịu hậu quả.
Thứ 2: Cường độ thông tin và khối lượng tri thức nay trở thành khổng
lồ
Mỗi người đều có khả năng học hỏi kinh nghiệm từ những người khác
và nhờ đó hình thành kiến thức riêng cho mình hay cho doanh nghiệp mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét