Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế đất nước, số lượng doanh
nghiệp và đội ngũ doanh nhân nước ta đã có sự thay đổi và phát triển vượt bậc.
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, thành phần các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh, số
lượng cũng không nhiều, tổng số lúc cao nhất cũng chỉ trên 1200 doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, Đảng và chính phủ đã có những nỗ lực đáng kể trong việc phát
triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích nhiều
thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng trong môi trường kinh doanh lành mạnh.
Do đó, số lượng doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Sau khi luật Công ty được
ban hành năm 1990, đặc biệt là sau khi luật Doanh nghiệp có hiệu lực năm 2000, đến
nay cả nước có khoảng 300 000 doanh nghiệp trong đó có gần 200 000 doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, trên 3,7 triệu hộ kinh doanh cá thể.
Bên cạnh sự ra đời của ngày càng nhiều các doanh nghiệp thì xu hướng “liên
doanh, liên kết - hợp tác vững mạnh” cũng nảy sinh như một nhu cầu tất yếu trong xã
hội hiện đại. Sự cạnh tranh và quy luật đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị
trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đoàn kết, chung lưng góp sức trước hết là
vì sự tồn tại, vì lợi ích và tương lai của chính mình. Hơn lúc nào hết, sự ra đời của
một tổ chức tập hợp, liên kết, hỗ trợ và đại diện giờ đây đã trở thành một nhu cầu cấp
thiết đối với các doanh nghiệp. Tổ chức này sẽ thay họ làm nhiệm vụ của người phát
ngôn, đại diện cho quyền lợi và mong muốn chung của các doanh nghiệp, là cầu nối
liên kết các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vì thế, sự ra đời của Hội, Hiệp hội
doanh nghiệp là cần thiết. Hội là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với các nhà doanh
nghiệp, đồng thời là môi trường tập hợp, bồi dưỡng, định hướng phát triển cho các
nhà doanh nghiệp. Bước sang thế kỷ 21, các nhà doanh nghiệp tiếp tục là lực lượng
quan trọng trong quản lý, điều hành các đơn vị kinh tế nước nhà. Việc tập hợp, bồi
1
Luận văn tốt nghiệp
dưỡng nghiệp vụ, giáo dục, định hướng tư tưởng cho đội ngũ các nhà doanh nghiệp
là nhiệm vụ của tổ chức Hội, Hiệp hội và cũng là vấn đề cấp bách, quan trọng để đảm
bảo năng lực cạnh tranh, sự phát triển ổn định và đúng định hướng XHCN của nền
kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp
chưa thực sự cao. Theo đánh giá của Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan thì: “Nhìn
chung, các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam đều nỗ lực rất lớn phấn đấu thực hiện
vai trò chủ chốt của mình, đại diện bảo vệ cho quyền lợi hội viên, kể cả các quan hệ
trong nước cũng như các quan hệ kinh doanh quốc tế. Nhưng thực tế hiện nay cho
thấy, năng lực các Hiệp hội còn khác nhau, điều kiện của các hiệp hội cũng khác nhà
và vai trò, đóng góp của các hiệp hội cũng chênh lêch nhau đáng kể”. Mặt khác, sau
khi Việt Nam là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mới, cũng như
thách thức mới trong việc phát triển kinh tế nói chung. Điều này đòi hỏi, mối liên hệ
giữa doanh nghiệp và Hiệp hội càng cao. Trước thực tiễn đó, việc triển khai nghiên
cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội
doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là cần thiết và cấp
bách.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình giới doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay, mô hình tổ chức hoạt động của một số hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài và hoạt
động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam, từ đó đề ra các giải pháp, biện pháp,
định hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam
phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu hiện nay của đất nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Khái quát các vấn đề lý luận liên quan đến doanh nghiệp và hoạt động của
Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam và kinh nghiệm hoạt động của một số hiệp
hội trên thế giới.
2
Luận văn tốt nghiệp
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Hội, Hiệp hội doanh nghiệp Việt
Nam cụ thể từ đó đưa ra nhận xét chung về hoạt động của Hội, Hiệp hội
doanh nghiệp nói chung.
- Đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh
nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của các doanh nghiệp trong Hiệp hội và tác
động của Hiệp hội đối với các doanh nghiệp tham gia.
- Khách thể nghiên cứu: Các doanh nghiệp, Hội doanh nghiệp Việt Nam, Hội
doanh nghiệp của môt số nước trên thế giới.
- Phạm vi nghiên cứu: Toàn quốc, tập trung vào một số Hiệp hội có hoạt động
tốt và hiệu quả.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp các tư liệu, tài liệu liên quan.
- Phương pháp chuyên gia: Tọa đàm, trao đổi.
6. Kết cấu cấu đề tài
Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của đề tài chia làm 3 chương:
- Chương 1: Những cơ sở lý luận và nội dung chủ yếu về doanh nghiệp và hoạt
động của doanh nghiệp trong Hiệp hội.
- Chương 2: Thực trạng quá trình hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3
Luận văn tốt nghiệp
- Chương 3: Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội
doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập.
Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu của đề tài là rất mới mẻ, thời gian nghiên
cứu có hạn nên trong một số khía cạnh trình bày của sẽ không tránh khỏi thiếu sót.
Em rất mong những ý kiến đánh giá, phê bình quý báu của thầy cô và các bạn để bài
viết được hoàn thiện và có ý nghĩa thực tiễn hơn.
4
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU
VỀ DOANH NGHIỆP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP
1.1 Một số nhận thức chung về doanh nghiệp
1.1.1 Doanh nghiệp
Trong các cuốn Từ điển tiếng Việt, khái niệm "doanh nghiệp" được định
nghĩa chưa rõ ràng và chưa bao quát hết các loại hình tổ chức kinh doanh.
Khái niệm "doanh nghiệp" hiểu theo Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tháng 12/2005 là "Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài khoản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh".
Tuy nhiên, vì luật này chỉ điều chỉnh các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân,
có con dấu riêng nên khái niệm doanh nghiệp qui định trong Luật như trên là theo
nghĩa hẹp. Trong thực tế tại Việt Nam, số lượng các doanh nghiệp như trên là khoảng
100.000, trong khi các tổ chức kinh tế qui mô nhỏ như tổ, nhóm, hộ kinh doanh cá
thể là hơn 2,5 triệu đơn vị. Các cơ sở kinh tế này tuy nhỏ về qui mô, nhưng cũng thực
hiện đầy đủ các công đoạn của hoạt động kinh doanh, có Giấy đăng ký kinh doanh do
chính quyền cấp và cũng nộp thuế kinh doanh theo qui định của Nhà nước. Trong
"Báo cáo định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam đến năm 2010" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì các cơ sở kinh tế nói trên
được định nghĩa thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, tức cũng là các doanh
nghiệp.
Khái niệm doanh nghiệp được định nghĩa theo Giáo trình Kinh tế vi mô –
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân xuất bản năm 2007 là: “Doanh nghiệp là các đơn
vị kinh tế cơ sở có chức năng sản xuất - kinh doanh hàng hoá, dịch vụ một cách hợp
pháp theo nhu cầu của thị trường nhằm mục tiêu lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế - xã
hội tối đa”. Theo định nghĩa này, về mặt lý thuyết, doanh nghiệp bao hàm tất cả các
cơ sở sản xuất - kinh doanh từ các tập đoàn kinh tế lớn đến các hộ gia đình kinh
5
Luận văn tốt nghiệp
doanh cá thể. Nhưng trong thực tế quản lý ở nước ta hiện nay, pháp luật mới chỉ coi
là doanh nghiệp các tổ chức kinh tế đăng ký theo Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh
nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật đầu tư nước ngoài.Hộ gia đình và kinh doanh
cá thể chưa được coi là doanh nghiệp.
Khái niệm "doanh nghiệp" sử dụng trong chuyên đề được hiểu theo nghĩa như
sau: "doanh nghiệp" là các cơ sở kinh tế có đăng ký kinh doanh và thực hiện các hoạt
động kinh doanh theo qui định của pháp luật.
1.1.2 Kinh doanh
Nói chung, chúng ta có thể hiểu một cách nôm na kinh doanh là buôn bán. Tuy
nhiên không thể đồng nhất kinh doanh và buôn bán là một.Có rất nhiều định nghĩa về
nghề buôn bán có thể được tìm thấy trong ngôn từ mô tả các quá trình kinh doanh.
Định nghĩa đầu tiên về nghề buôn bán, ra đời từ thế kỷ 18, coi đó là một thuật ngữ
kinh tế mô tả quá trình chấp nhận những rủi ro của việc mua hàng ở một mức giá nào
đó cố định để rồi bán lại với một mức giá khác không cố định. Về sau, các nhà bình
luận đã mở rộng định nghĩa này và bao gồm trong đó cả việc tập trung các yếu tố sản
xuất. Định nghĩa này đưa mọi người đến một câu hỏi khác là liệu việc buôn bán có
một chức năng duy nhất hay không hay nó đơn thuần chỉ là một hình thức của việc
quản lý. Đầu thế kỷ này, khái niệm đổi mới được đưa thêm vào định nghĩa về việc
buôn bán. Đổi mới ở đây có thể là đổi mới quá trình, đổi mới thị trường, đổi mới sản
phẩm, đổi mới yếu tố và thậm chí đổi mới về một cơ cấu. Các định nghĩa sau này mô
tả công việc kinh doanh có bao gồm cả việc thành lập các doanh nghiệp mới mà
người thành lập nên chúng là những người buôn bán. Như vậy, trong quá trình kinh
doanh có hoạt động mua bán và kinh doanh chính là hoạt động đầu tư để thu lợi
nhuận.
Theo định nghĩa về kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì “Kinh
doanh là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi”
6
Luận văn tốt nghiệp
1.1.3 Nhà doanh nghiệp
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt khái niệm nhà doanh nghiệp vẫn chưa được
định nghĩa. Trong Giáo trình Quản lý kinh tế có đưa ra khái niệm "cán bộ quản lý sản
xuất - kinh doanh": đó là những người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh
nghiệp với chế độ tự chủ hạch toán kinh doanh nhằm mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã
hội cao nhất. Trong thực tế, nhà doanh nghiệp thường được hiểu là những người giữ
vị trí lãnh đạo đang trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp được
thành lập và hoạt động theo qui định của pháp luật.
1.2 Một số nhận thức chung về Hội doanh nghiệp
1.2.1 Sự ra đời của Hội doanh nghiệp
Từ xa xưa, ông bà ta đã thấy lợi ích của sự liên kết và hợp tác, qua câu nói
“buôn có bạn bán có phường”. Sự cạnh tranh theo kiểu ‘anh thắng có nghĩa là tôi
thua’ đã không còn đúng hẳn, mà giờ đây xu hướng ‘cạnh tranh trong hợp tác’, tức cả
hai cùng thắng, đã dần trở thành cung cách mới trong kinh doanh. Nhất là khi tài
nguyên xã hội (vốn, kỹ thuật, quản lý, ý tưởng ) đã ngày càng dồi dào, không ai có
thể giữ được lâu lợi thế cho riêng mình.
Một tính chất khác có ảnh hưởng quan trọng đến xu hướng liên kết: sự phân
khúc ngày càng nhỏ của thị trường. Một ví dụ: ngày nay, trong một đô thị lớn, không
thể tìm đâu ra một nhà hàng có thể bán đủ món cho mọi đối tượng khách hàng, vì sở
thích của người ta đã ngày càng phân nhánh đến hết mức, tới nỗi có những nhà hàng
chỉ chuyên bán món bún, hoặc món cuốn, hoặc bánh mỳ ; thế nhưng chính những
nhà hàng ấy lại thành công hơn cả.
Khi sự chuyên môn hoá lên đến cao độ, tất yếu dẫn đến nhu cầu liên kết cao
độ. Nhà hàng sẽ cần đến nhà cung cấp rau chuyên nghiệp, rồi là quản lý, phục vụ,
phụ bếp chuyên nghiệp, ngoài ra còn phải liên kết với những đơn vị du lịch, công
ty truyền thông, báo chí,
7
Luận văn tốt nghiệp
Sự cạnh tranh và quy luật đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đòi
hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có sự đoàn kết, chung lưng góp sức trước hết
là vì sự tồn tại, vì lợi ích và tương lai của chính mình. Hơn lúc nào hết, sự ra đời của
một tổ chức tập hợp, liên kết, hỗ trợ và đại diện giờ đây đã trở thành một nhu cầu cấp
thiết đối với các doanh nghiệp, tạo môi trường cho các doanh nghiệp trao đổi kinh
nghiệm, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong phát triển, cung cấp đầy đủ các hoạt động hỗ
trợ, xúc tiến, tư vấn phát triển cho các thành viên. Và các Hiệp hội doanh nghiệp ra
đời để đáp ứng các nhu cầu đó.
Như vậy, Hội doanh nghiệp là tổ chức tự nguyện bao gồm những người có
nhu cầu, mục đích, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của hội, hội viên và cộng đồng góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Ví dụ: Hội doanh nghiệp trẻ
Việt Nam, Hội doanh nghiệp vừa và nhỏ….
1.2.2 Sự cần thiết phải phát huy vai trò của Hội, Hiệp hội trong điều kiện hội
nhập Kinh tế quốc tế
Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, các Doanh nghiệp không còn
được trợ cấp mang tính trực tiếp, cơ quan quản lý Nhà nước không còn là người “vừa
đá bóng, vừa thổi còi” mà chỉ còn là trọng tài nên doanh nghiệp bước vào môi trường
kinh doanh mới rất minh bạch với sự cạnh tranh hết sức quyết liệt. Mặt khác, tính
liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự cao. Do đó, các doanh nghiệp
sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thâm nhập thị trường và nâng cao uy tín trên
trường quốc tế nếu doanh nghiệp đứng đơn lẻ cho nên việc lắng nghe, nắm bắt tình
hình hoạt động của các doanh nghiệp của Hiệp hội là cần thiết để tháo gỡ các khó
khăn.
Việc tập trung tư vấn, hướng dẫn cung cấp thông tin cho doanh nghiệp những
vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, những cam kết của Việt Nam với WTO là vấn đề mà
nhiều doanh nghiệp quan tâm. Cùng với các cơ hội cho doanh nghiệp phát huy hết
năng lực của mình, tuy nhiên với các quy định của WTO, các cam kết song phương,
8
Luận văn tốt nghiệp
đa biên và các tập quán, thông lệ, luật pháp quốc tế…đã vượt khả năng hiểu biết của
các doanh nghiệp kinh doanh trong nước theo tập quán thông thường. Vì thế, vai trò
của các Hội, Hiệp hội càng cần thiết với các doanh nghiệp trong việc hướng dẫn, hỗ
trợ các doanh nghiệp trong kinh doanh.
Bên cạnh đó, Hiệp hội là tổ chức thích hợp nhất và không thể thay thế trong
việc đánh giá chất lượng, điều phối hoạt động và giải quyết mối quan hệ giữa các
doanh nghiệp trong nội bộ lĩnh vực đó. Bám sát doanh nghiệp và hơn nữa lại chính là
đại diện cho tiếng nói của nhóm doanh nghiệp trong lĩnh vực, hiệp hội sẽ nắm bắt
một cách cụ thể và rõ ràng những vận hội và thách thức của ngành, từ đó đưa ra
những biện pháp mang tính chính sách để điều tiết một cách hài hoà giữa lợi ích của
ngành trong mối tương quan với các lĩnh vực khác, cũng như trong quan hệ và cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành.
1.2.3 Các yếu tổ ảnh hưởng tới việc thành lập Hội, Hiệp hội doanh nghiệp ở Việt
Nam
Trên lý thuyết, thủ tục thành lập Hội, Hiệp hội quy định rõ trong Luật về Hội
được thông qua ở kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 11 qua đó cho thấy rõ hơn các bước
thành lập Hội. Trước tiên, muốn thành lập một Hội cần phải có Ban vận động thành
lập hội. Ban vận động thành lập Hội có ít nhất 3 sáng lập viên. Sáng lập viên là công
dân từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có hiểu biết chuyên
môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực Hội dự kiến hoạt động, trừ người đang bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án tước một
số quyền công dân có liên quan; trường hợp sáng lập viên là tổ chức thì tổ chức đó
phải được thành lập hợp pháp. Từ đó, ban vận động của Hội sẽ điều hành, cử người
đứng đầu ban vận động, lập hồ sơ đăng ký thành lập Hội gửi Bộ Nội vụ hoặc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh. Sau khi được phê duyệt hồ sơ, Ban vận động phải tiến hành tổ
chức Đại hội thành lập hội.
Tuy nhiên, trên thực tế việc thành lập Hội , Hiệp hội thường trải qua thời gian
dài, qua nhiều quá trình, và chịu chi phối bởi nhiều yếu tố:
9
Luận văn tốt nghiệp
Yếu tố thứ nhất ảnh hưởng đến quá trình thành lập Hội, Hiệp hội chính là xu
thế khách quan và sự đòi hỏi thành lập Hội của các thành viên. Yếu tố này là rất cần
thiết để cho ra đời một Hội, Hiệp hội tuy nhiên không phải là yếu tố chủ chốt. Việc
liên kết các doanh nghiệp cùng ngành nghề với nhau vào một tổ chức Hội theo xu thế
và đòi hỏi khách quan của thực tiễn nền kinh tế cần phải tiến hành thông qua một Ban
vận động. Do đó, nếu chỉ có những doanh nghiệp có nguyện vọng thành lập Hội mà
chưa có một Ban vận động, một cơ cấu tổ chức thực sự của Hội thì Hội cũng chưa
thể hình thành. Như Hiệp hội Thủy sản Việt Nam ra đời trên cơ sở sự liên kết của các
doanh nghiệp Thủy sản trong quá trình kinh doanh phát triển sản phẩm và được điều
hành bởi Ủy ban Trung ương Hội.
Yếu tố thứ hai ảnh hưởng tới việc thành lập và duy trì một Hội là yếu tố tổ
chức. Trước hết đó là ban lãnh đạo, bộ máy. Bất kỳ một Hội, Hiệp hội nào đều cần
một tổ chức có tư cách pháp nhân có con dấu và có người lãnh đạo có đủ tầm nhìn và
bao quát được hoạt động. Bộ máy nhân sự là hết sức quan trọng, bởi nếu muốn hoạt
động của Hội được tốt thì bộ máy nhân sự phải tốt đứng đầu tổ chức bộ máy là Ban
lãnh đạo do Ban vận động bầu ra. Việc duy trì hoạt động của Hội là do Bộ máy Hội
hoạt động có tốt hay không. Trên thực tiễn đến hơn 90% Hội hoạt động tốt do có bộ
máy nhân sự và cán bộ lãnh đạo có tầm nhìn và có quan hệ tốt với cơ quan hữu quan.
Yếu tố cuối cùng làm ảnh hưởng tới quá trình thành lập Hội đó chính là kinh
phí. Kinh phí giúp cho Ban vận động của Hội có thể làm các thủ tục cần thiết trong
việc thành lập Hội. Kinh phí còn giúp duy trì hoạt động của Hội. Nguồn kinh phí để
tiến hành thành lập Hội có thể lấy từ nguồn tài trợ, từ lệ phí ban đầu do các thành
viên sáng lập tự nguyện đóng góp, hoặc do cơ quan sáng lập tài trợ…Do vậy, nguồn
kinh phí có thể huy động từ nhiều nguồn cung cấp cho Ban vận động để có thể tiến
hành thành lập Hội.
1.2.4 Chức năng hoạt động của Hội doanh nghiệp
10

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét