Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

303803

5
Năm 1962, Hàn Quốc đã tiến hành kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất,
tập trung phát triển nền tảng công nghiệp có thể hỗ trợ cả thay thế nhập khẩu lẫn thúc
đẩy xuất khẩu. Thiếu năng lực công nghệ, Hàn Quốc phải dựa gần như hoàn toàn vào
các công nghệ nhập khẩu của nước ngoài. Khi đó, Hàn Quốc theo đuổi hai mục tiêu:
thúc đẩy chuyển giao các công nghệ nước ngoài vào nước mình và phát triển năng lực
thu hút thị trường trong nước nhằm tiêu thụ, sử dụng, cải tiến các công nghệ được
chuyển giao. Khi xuất hiện sự phụ thuộc vào các công ty đa quốc gia, không giống như
các nước đang phát triển khác, Hàn Quốc đã lựa chọn việc từ bỏ đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và thay vào đó là tập trung vào các phương thức như thay đổi công nghệ,
chế tạo thiết bị ban đầu (OEM) và cấp bằng chứng nhận của nước ngoài. Các phương
thức này có lợi đáng kể trong việc đào tạo cho lao động.
Hàn Quốc thường xuyên phải sử dụng các khoản vay dài hạn của nước ngoài cho
đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp. Khoản tiền này được đầu tư vào một số ngành
then chốt, dẫn tới việc xuất hiện hàng loạt hàng nhập khẩu có nguồn gốc vốn nước
ngoài và từ các nhà máy trực tiếp chuyển giao. Các công ty Hàn Quốc thu lợi chủ
yếu từ việc sản xuất OEM bởi vì việc này mang lại cơ hội hợp tác với các công ty
bán hàng nước ngoài, nơi cung cấp mọi thứ từ thiết kế sản phẩm và vật liệu tới
kiểm soát chất lượng và quy trình sản xuất cuối cùng. Điều này rất đặc biệt đối với
trường hợp trong các ngành may mặc và điện tử. Lao động đã đúc rút được nhiều
kinh nghiệm có giá trị.
Trong những năm 1970, Hàn quốc đã đầu tư mạnh vào máy móc và hóa chất. Trong
lĩnh vực hóa chất, Hàn Quốc dựa chủ yếu vào các nhà máy chìa khóa trao tay, với các
chương trình đào tạo kỹ thuật là một phần của gói hàng. Trong lĩnh vực công nghiệp
nặng, việc lấy giấy cấp phép là một kênh quan trọng đối với du nhập công nghệ. Để
giúp hai ngành mới này phát triển mạnh hơn, Chính phủ đã thành lập các viện R&D và
cùng hợp tác với khu vực tư nhân để xây dựng nền tảng công nghệ phát triển công
nghiệp.
Nói chung, các ngành công nghiệp ở Hàn Quốc dựa ngày càng nhiều vào các kênh
không chính thức hơn là các kênh chính thức để có được công nghệ. Phương thức tiếp
cận của Hàn Quốc dẫn đến các tác động tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, chính
sách này cho phép Hàn Quốc có được công nghệ với chi phí thấp hơn và ngăn chặn sự
thúc ép của các công ty đa quốc gia đối với các công ty địa phương để phát triển năng
lực của các công ty này. Mặt trái là Hàn Quốc phải từ bỏ việc tiếp cận các công nghệ
có sẵn thông qua các kênh mua bán trực tiếp với các công ty nước ngoài. Khi hạn chế
nguồn FDI, Hàn Quốc không thể đáp ứng các tiêu chuẩn toàn cầu trong các hoạt động
kinh doanh trong nước. Tệ hơn nữa, sự phụ thuộc vào các khoản vay nợ lớn của nước
ngoài là một trong những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Tuy
nhiên cuối cùng thì Hàn Quốc cũng đã thành công vì các hình thức chuyển giao công
nghệ không chính thức lại đóng góp trong công cuộc xây dựng một nguồn lực được
giáo dục tốt. Cần phải đánh giá đúng tầm quan trọng của một nguồn lực.
6
1.1.2. Xây dựng năng lực R&D trong nước
Khi tiếp tục phát triển công nghiệp vào những năm 80, yêu cầu về công nghệ của
các ngành công nghiệp Hàn Quốc trở nên phức tạp hơn. Cùng thời điểm này, các nước
phát triển bắt đầu nhìn nhận Hàn Quốc như một đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế
giới và các công ty nước ngoài ngày càng trở nên do dự khi chuyển giao công nghệ
mới sang các đối tác Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc phản ứng bằng việc nới lỏng các
quy định về thu hút FDI và tự do hoá quá trình xin giấy phép ở nước ngoài, tuy nhiên
những thay đổi này không dẫn tới những tăng trưởng đáng kể.
Cuối cùng, Chính phủ đã kết luận rằng để phát triển bền vững cần phải xây dựng
năng lực R&D trong nước. Chương trình R&D Quốc gia được khởi động năm 1982 và
các chương trình khác nhau được tiến hành nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện cho các
hoạt động R&D tư nhân, trong đó có khấu trừ thuế đối với các khoản đầu tư R&D và
phát triển lao động. Một số biện pháp chủ chốt được thiết kế nhằm thực hiện chiến
lược tổng thể của Chính phủ để đưa các công ty ra cạnh tranh trên trường quốc tế.
Chính phủ đã cung cấp cho các công ty nguồn tài chính và các nguồn động viên khác
dựa trên hiệu quả xuất khẩu. Các công ty hoạt động có hiệu quả cao hơn có những cơ
hội kinh doanh tốt hơn cũng như dễ dàng tiếp cận nguồn tài chính hơn. Các công ty
của Hàn Quốc nhận thức được rằng để giữ tốc độ phát triển khi có thay đổi công nghệ
và tồn tại trong một thế giới định hướng xuất khẩu thì họ phải đầu tư mạnh vào R&D.
Chính phủ cũng giành ưu đãi cho các công ty lớn trong hoạt động xuất khẩu. Chính
phủ đã thành lập một loại hình tổ chức kinh doanh độc nhất ở Hàn Quốc với tên gọi
Cheabols (tương tự như Zaibatsu ở Nhật Bản trước Thế chiến Thứ 2). Chaebols được
hưởng nguồn tài chính lớn hơn bởi vì tổ chức này phát triển kinh tế ở quy mô lớn hơn
và phạm vi hoạt động kinh doanh mạnh hơn. Vì vậy, các công ty trong tổ chức
Chaebols có khả năng tham gia vào các dự án R&D với chi phí lớn và rủi ro cao trong
khi các công ty vừa và nhỏ không có khả năng thực hiện. Hiện nay, 20 công ty hàng
đầu chiếm 57% tổng đầu tư R&D công nghiệp ở Hàn Quốc.
Kết quả các hoạt động của Chính phủ rất gây ấn tượng. Xu hướng tập trung vào
R&D trong nước để tìm kiếm công nghệ làm giảm tỉ lệ nhập khẩu công nghệ từ
khoảng 40% năm 1981 xuống còn 20% vào giữa những năm 80 và xuống còn 10%
vào đầu những năm 90. Đầu tư vào R&D của Hàn Quốc năm 1981 chỉ đạt mức 526 tỉ
USD, chiếm 0,81% GPD, đến năm 1996 đã tăng thêm 13,5 tỉ USD, đạt 2,6% GDP và
tăng thêm 26,3 tỉ USD, chiếm 2,9% GDP vào năm 2005. Trong vòng 24 năm, đầu tư
vào R&D tăng gần 50 lần, với tỉ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt gần 20%.
Hiện nay Hàn Quốc là nước đứng thứ 6 trong số những nước đầu tư nhiều nhất vào
R&D thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCED).
Vì chi tiêu cho R&D ở khu vực tư nhân tăng lên, chi tiêu của Chính phủ giảm đi.
Năm 1981, Chính phủ chiếm khoảng 53,5% tổng đầu tư cho R&D tuy nhiên tỉ lệ này
giảm từ 19,4% năm 1990 xuống còn 16% năm 1994 trước khi tăng lên ở mức 24,3%
năm 2005. Hiện nay, khu vực tư nhân chiếm 75,6% tổng đầu tư cho R&D. Với mục
7
tiêu công nghiệp đi đầu, các hoạt động R&D của Hàn Quốc tập trung mạnh vào nghiên
cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, tương ứng với những vấn đề thương mại hoá
trong ngắn hạn. Vào những năm 80, khoảng 83% đầu tư cho R&D được sử dụng vào
mục đích nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, năm 2005 con số này là
84,7%.
Lý do chính giải thích tại sao Hàn Quốc có thể tăng đầu tư quá nhanh là bởi vì Hàn
Quốc có một nguồn nhân lực có trình độ cao có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
các dịch vụ R&D ở cả khu vực nhà nước và tư nhân. Hàn Quốc nhận thức được rằng
đầu tư vào R&D cấp thiết hơn khi nguồn nhân lực còn thiếu nếu so với những hạn chế
về mặt tài chính và do đó phải chuẩn bị tốt cho sự phát triển bằng cách đầu tư mạnh
vào giáo dục và phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tư vào R&D tăng nhanh và tiếp tục tăng lên đến khi Hàn Quốc bị khủng hoảng
tài chính năm 1997. R&D là một trong những vấn đề bị ảnh hưởng nhiều nhất. Trong
một khảo sát thực hiện đầu năm 1998, nhiều công ty đã trả lời rằng họ cắt giảm gần
20% đầu tư vào R&D và nhân lực để giải quyết khủng hoảng. Trên thực tế, chi tiêu
cho R&D trong lĩnh vực công nghiệp giảm 10% trên danh nghĩa, giảm từ 884,4 tỉ won
năm 1997 xuống 797,2 tỉ won năm 1998, nhưng tính theo giá trị đồng đô-la, mức giảm
này còn cao hơn thế (38,5%) bởi vì giá trị tiền tệ của Hàn Quốc so với USD giảm đáng
kể trong năm 1998. Nhân lực R&D cũng giảm 15% từ 102.000 người năm 1997 xuống
87.000 người năm 1998. Đây là cú sốc lớn đối với hệ thống đổi mới của Hàn Quốc.
Nếu cuộc khủng hoảng còn tiếp diễn thêm nhiều năm nữa thì hệ thống này có thể bị
sụp đổ.
Tuy nhiên thật may mắn là Hàn Quốc đã phục hồi sau cuộc khủng hoảng trong một
khoảng thời gian ngắn. Chỉ cần hai năm để hồi phục R&D trong công nghiệp và tăng
trên mức đạt được trước khủng hoảng. Hàn Quốc có thể làm được điều này vì hai lý
do. Thứ nhất, tỉ lệ tổng chi tiêu cho R&D của Chính phủ tăng từ mức dưới 20% trước
hủng hoảng lên 27% sau khủng hoảng. Nguồn tài chính cho R&D của Chính phủ đầu
tư trực tiếp vào các công ty nhỏ phát triển dựa vào công nghệ để giúp các công ty này
duy trì và mở rộng các hoạt động đổi mới. Thứ hai, hoạt động đẩy mạnh công nghệ
thông tin (IT) của Chính phủ và các dự án kinh doanh có liên quan tới IT dẫn tới bùng
nổ IT vào đầu những năm 2000. Tỉ lệ chi tiêu cho IT trong tổng chi tiêu cho R&D của
Chính phủ tăng từ 13% năm 1997 lên 33,5% năm 2002. Chính sách phát triển IT
chuyên nghiệp cũng ảnh hưởng tích cực tới các hoạt động đổi mới ở các khu vực khác.
Mặc dù có một vài chỉ trích về chính sách R&D của Hàn Quốc - nhân tố chính giải
thích việc đầu tư của Chính phủ không hiệu quả để điều chỉnh về mặt kinh tế - nhưng
cũng không thể phủ nhận những đóng góp tích cực mà những nỗ lực đã thực hiện.
Tăng trưởng nhanh trong đầu tư cho R&D đã dẫn tới sự tăng lên đáng kể về đăng ký
pa-tăng. Số lượng pa-tăng do Phòng Sở hữu Công nghiệp Hàn quốc cấp tăng từ 1.808
năm 1981 lên 73.512 năm 2005, tỉ lệ tăng trung bình hàng năm đạt hơn 24%. Số lượng
pa-tăng của Mỹ cấp cho Hàn Quốc tăng từ con số 5 năm 1969 lên 543 năm 1992 và
8
3.538 năm 2001, đưa Hàn Quốc lên vị trí thứ 7 trên thế giới. Theo một phân tích về pa-
tăng của Bộ Thương Mại Mỹ, Hàn Quốc đã tạo lập vị trí nổi bật trên thế giới trong các
lĩnh vực như thông tin và viễn thông, dược, vật liệu hiện đại và chế tạo ô tô. Các con
số thống kê cho thấy rằng Hàn Quốc đang nhanh chóng có được lợi thế cạnh tranh về
công nghệ.
Một vấn đề phát triển khác quan trọng nữa là sự tăng lên đáng kể trong số lượng các
bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí được công nhận trên thế giới. Số lượng
xuất bản phẩm của Hàn Quốc theo Chỉ số trích dẫn Khoa học (Science Citation Index)
tăng từ 27 năm 1973 lên 171 năm 1980, 1.227 năm 1988, 9.124 năm 1997 và 23.048
năm 2005, đưa Hàn Quốc từ vị trí thứ 37 trên thế giới năm 1988 lên vị trí thứ 14 năm
2005. Mặc dù Hàn Quốc tiến chậm hơn nhiều so với các nước dẫn đầu về xuất bản
khoa học, nước này lại có tỉ lệ tăng cao nhất, đạt 24,2% mỗi năm từ 1973 đến 2005.
Đối với Hàn Quốc, để duy trì tốc độ phát triển trong tương lai, nước này cần đẩy
mạnh hơn nữa năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản và cải thiện các điều kiện khung
trong đổi mới.
Cuối cùng, các nỗ lực R&D đã đóng góp vào sự phát triển của các ngành công nghệ
cao ở Hàn Quốc. Dựa trên R&D trong nước, các ngành công nghiệp Hàn Quốc hiện
nay nổi lên dẫn đầu thế giới về sản xuất chip nhớ bán dẫn, điên thoại di động, màn
hình tinh thể lỏng cũng như thiết lập được vị trí của mình trên thị trường thế giới trong
lĩnh vực đóng tàu, thiết bị gia đình, chế tạo ô tô, viễn thông và một số lĩnh vực khác.
Vai trò của Chính phủ
Khi công nghiệp phát triển và tăng trưởng vững vàng hơn ở Hàn Quốc, vai trò của
Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế cũng mở rộng hơn. Vào đầu những
năm 1960, Chính phủ đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển của Hàn Quốc, thiết lập
những mục tiêu chính sách cụ thể và hướng nền công nghiệp theo các mục tiêu này.
Chính phủ hành động như một công cụ thiết lập mục tiêu và quy chuẩn cũng như một
nhà cung cấp tài chính. KH&CN là một phần không thể thiếu trong kế hoạch phát triển
kinh tế quốc gia. Tuy nhiên khi phát triển công nghiệp đi lên, ngày càng khó khăn hơn
cho Chính phủ trong việc can thiệp một cách hiệu quả vào các hoạt động kinh tế cũng
như R&D bởi vì quy mô và độ phức tạp của các hoạt động công nghiệp ngày càng
tăng. Vì vậy, Chính phủ bắt đầu sử dụng những phương thức trực tiếp để thúc đẩy sự
phát triển, thực hiện vai trò là người tạo điều kiện và thúc đẩy phát triển.
Hiện nay, Hội đồng KH&CN Quốc gia (NSTC) là cơ quan đứng đầu chịu trách
nhiệm định hướng chính sách KH&CN và các ưu tiên đối với đầu tư R&D của Chính
phủ. Văn phòng Đổi mới KH&CN (OSTI) thành lập năm 2004 thuộc MOST đã cấp
ngân sách KH&CN dựa trên những ưu tiên do NSTC đề ra. Đến năm 1987, MOST là
cơ quan duy nhất trong lĩnh vực nghiên cứu khu vực nhà nước, tuy nhiên sau đó là
những lĩnh vực được coi là điểm cất cánh cho sự phát triển của Hàn Quốc (vào cuối
những năm 80 và đầu những năm 90), các bộ khác cũng bắt đầu thiết lập các chương
trình R&D nhằm giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực thuộc phạm vi của mình. Ví dụ
9
như Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng đã tiến hành Chương trình Phát triển
Công nghệ Công nghiệp năm 1987 và Chương trình Phát triển Năng lượng Thay thế
năm 1988, và Bộ Thông tin và Truyền thông đã thực hiện Chương trình Phát triển
Công nghệ Thông tin và Truyền thông năm 1989. Cuối cùng, vai trò của MOST giảm
dần, năm 2003 tỉ lệ chi tiêu R&D của Chính phủ thuộc bộ này chỉ còn 20,6%.
Một vấn đề mới nảy sinh từ việc tham gia ngày càng tăng của các bộ vào công tác
R&D, đó là: làm thế nào để phân chia nguồn lực hạn chế. Câu hỏi này không chỉ là
vấn đề công nghệ mà còn là vấn đề kinh tế và chính trị, trong đó R&D của Chính phủ
được điều chỉnh chỉ khi những người đóng thuế đồng thuận. Để giải quyết vấn đề này,
vào giữa những năm 80, Chính phủ đã chấp nhận sử dụng phương thức lập kế hoạch
và đánh giá công nghệ trong quá trình thực hiện các chương trình R&D. Tuy nhiên
việc này chỉ được thực hiện vào năm 1992 khi một hệ thống quản lý R&D của khu vực
nhà nước ở Hàn Quốc được hình thành. Vào năm đó, Chính phủ đã bắt đầu Dự án
HAN (Highly Advanced National Project), một chương trình R&D phối hợp giữa các
bộ kéo dài 10 năm nhằm mục tiêu phát triển các công nghệ then chốt cho phát triển
công nghiệp trong thế kỷ 21. Dự án HAN là chương trình R&D đầu tiên của Chính
phủ được phát triển thông qua một chu trình đầy đủ các quy trình kế hoạch như các
hoạt động dự báo công nghệ, tham vấn giữa các bộ. Dự án này cũng đánh dấu một sự
chuyển đổi lớn hơn của MOST từ tổ chức cấp vốn chính cho hoạt động R&D thành cơ
quan điều phối R&D và chính sách KH&CN.
1.1.3. Hướng tới tương lai
Hàn Quốc đã sải những bước dài phát triển KH&CN trong suốt bốn thập kỷ qua.
Tiếp tục đầu tư lớn vào phát triển nguồn nhân lực và R&D, Hàn Quốc đã thành công
trong việc xây dựng một hệ thống đổi mới độc nhất. Tuy nhiên vẫn tồn tại một số vấn
đề.
Thứ nhất, mặc dù Hàn Quốc chi một khoản lớn trong GDP vào R&D so với hầu hết
các quốc gia khác, các hoạt động R&D tập trung chủ yếu vào số ít các doanh nghiệp
lớn, gây ra hiện tượng mất cân bằng nghiêm trọng trong hệ thống này. Hơn nữa, R&D
trong công nghiệp bị tập trung quá nhiều vào một số ngành chẳng hạn như ngành điện
tử. Nếu sự tập trung này kéo dài sẽ phân chia các ngành công nghiệp của Hàn Quốc
với một bên là các công ty và khu vực phát triển công nghệ và một bên lại phát triển trì
trệ. Ngoài ra, sự đầu tư tập trung như vậy còn đồng nghĩa với việc hệ thống R&D dễ
gây ra những thay đổi trong môi trường kinh tế và doanh nghiệp. Chẳng hạn như các
doanh nghiệp lớn của Hàn Quốc đã chống đỡ với cuộc khủng hoảng tài chính năm
1997 bằng cách cắt giảm chi tiêu cho R&D xuống khoảng 14%, làm ảnh hưởng tới
toàn hệ thống.
Thứ hai, mặc dù Hàn Quốc đạt tới trình độ của các nước tiên tiến về mặt đầu vào
KH&CN, nước này vẫn còn đi sau rất xa về mặt hiệu quả hoạt động R&D. Nguyên
nhân quan trọng nhất của việc hoạt động kém hiệu quả là do thiếu sự tương tác và trao
đổi giữa các tổ chức đổi mới chủ chốt: các trường đại học, các viện nghiên cứu và khu
10
vực sản xuất. Sự thuyên chuyển của các nhà khoa học và các kỹ sư giữa các ngành
cũng rất thấp.
Thứ ba, sự yếu kém về khoa học cơ bản là nguyên nhân cơ bản bởi vì năng lực khoa
học cho thấy tiềm năng công nghệ của một quốc gia. Khi Hàn Quốc tập trung phát
triển công nghệ công nghiệp, nghiên cứu khoa học lại không được lưu tâm. Việc đẩy
mạnh nghiên cứu trong trường đại học là yếu tố then chốt trong tương lai.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc mang lại nhiều bài học cho các nhà hoạch định chính sách
ở các nước đang phát triển. Thứ nhất, rõ ràng là giáo dục mang lại năng lực thu nhận kiến
thức và công nghệ mới của một nước. Do đó, Chính phủ cần phải chịu trách nhiệm đưa ra
các biện pháp cần thiết để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư vào giáo dục trước,
như Hàn Quốc đã làm trong những năm 1960 và 1970, là cần thiết để thiết lập nền tảng
phát triển công nghiệp. Để giúp lao động thích nghi với thay đổi công nghệ, Chính phủ
cần cung cấp các chương trình đào tạo kỹ thuật và dạy nghề hoặc đưa ra các biện pháp để
thúc đẩy việc đào tạo tại nơi làm việc. Khi nền kinh tế phát triển hơn, cạnh tranh công
nghệ cũng trở thành một nhân tố quan trọng, và việc cần phải làm là phải khích lệ các nhà
khoa học có năng lực cao giải quyết các vấn đề phát triển KH&CN. Tóm lại, giáo dục
trong KH&CN phải được tiến hành trước tiên để chuẩn bị cho công cuộc bước vào thế
giới phát triển. Trong trường hợp của Hàn Quốc, giáo dục và công nghiệp hóa hỗ trợ nhau
để duy trì và thúc đẩy phát triển. Giáo dục hỗ trợ bổ sung kiến thức về công nghệ và công
nghiệp hóa, trong khi công nghiệp hóa thúc đẩy tỉ lệ hoàn vốn đầu tư trong giáo dục, thúc
đẩy nhu cầu giáo dục mạnh mẽ hơn.
Công nghiệp hóa ở Hàn Quốc phát triển từ quá trình đổi mới. Trong giai đoạn đầu,
các ngành công nghiệp của Hàn Quốc đạt được trình độ công nghệ thông qua các kênh
chuyển giao công nghệ không chính thức, chẳng hạn như quá trình chuẩn bị sản xuất
OEM, thay đổi về mặt kỹ thuật các máy móc nhập khẩu, đào tạo kỹ thuật là một phần
trong quá trình nhập khẩu của các nhà máy trao tay. Để thiết lập nền tảng công nghệ
ban đầu, nhiều ngành công nghiệp của Hàn Quốc đã thực hiện các quy trình phi thị
trường, dựa vào năng lực thu hút của đội ngũ lao động để có được công nghệ. Phương
thức này giúp họ sở hữu công nghệ với chi phí thấp và duy trì khả năng độc lập trong
các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, chiến lược này cũng phải trả giá lớn: Hàn Quốc
phải từ bỏ rất nhiều cơ hội có được công nghệ mà các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
có thể chuyển giao.
Vì sử dụng chiến lược phát triển có tầm nhìn xa, Chính phủ đã đưa các ngành công
nghiệp của Hàn Quốc vào thị trường quốc tế đầy cạnh tranh dưới áp lực lớn về tìm
hiểu công nghệ và phát triển công nghệ. Các ngành công nghiệp của Hàn Quốc đã
hưởng ứng thông qua việc đầu tư mạnh vào phát triển công nghiệp. Bằng việc phát
triển năng lực công nghệ, các ngành này có thể duy trì vị thế trên thế giới và thiết lập
vị trí nổi bật trong một số lĩnh vực then chốt. Có thể vì lý do này mà các công ty định
hướng xuất khẩu đạt được những hiểu biết công nghệ nhanh hơn các công ty thay thế
nhập khẩu.
11
Tóm lại, Hàn Quốc sở hữu một nền tảng phát triển công nghệ và công nghiệp hóa
để phát triển nguồn nhân lực hùng mạnh và một chiến lược phát triển có tầm nhìn xa.
Hai bài học lớn mang lại kinh nghiệm cho Hàn Quốc, đó chính là nguồn nhân lực là
yếu tố then chốt đối với sự phát triển KH&CN và hơn nữa là tăng trưởng kinh tế, và
không có gì thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân tốt hơn là đầu tư vào phát triển công
nghệ hơn là cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên để duy trì phát triển từ quá khứ đến
tương lai, Hàn Quốc phải đẩy mạnh hơn nữa năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản và
cải thiện các điều kiện khung đối với công cuộc đổi mới. Thông qua việc tiếp tục đầu
tư mạnh vào phát triển nguồn nhân lực và R&D, Hàn Quốc đã thành công trong công
cuộc xây dựng một hệ thống đổi mới mang bản sắc riêng.

Hình 1: Hệ thống R&D của Hàn Quốc


Hội đồng KH&CN Quốc
gia (NTSC)
(Chủ tịch Hội đồng)
Phân tích nguồn lực
R&D quốc gia
Phân tích môi trường
R&D quốc gia
Xây dựng kế hoạch cơ bản
về KH&CN quốc gia
Các Bộ Các Bộ
Bộ Giáo dục,
KH&CN (MEST)
Khuyến khích, Hỗ trợ, Quản
lý của Chính phủ đối với các
viện nghiên cứu được hỗ trợ
Ủy ban Nghiên cứu
KH&CN cơ bản (KRCF)
Bổ nhiệm các chủ tịch của
các GRI dưới KRCF
Các Viện nghiên cứu được hỗ
trợ bởi Chính phủ (GRI)
Các viện nghiên cứu công
quốc gia, Chính phủ hỗ trợ
nghiên cứu
Các viện nghiên cứu công
quốc gia, Chính phủ hỗ trợ
nghiên cứu
Đánh giá tổng thể về thực hiện
R&D quốc gia
12
1.2. Các chƣơng trình R&D chính của Hàn Quốc
Vào năm 2001, MOST đã khởi động một dự án khoa học và nghiên cứu đầy tham
vọng với chi phí lên tới 400 triệu USD. Khối lượng kinh phí này phản ánh sự gia tăng
mạnh ở chi phí đầu tư so với những năm trước đó. Chương trình bao gồm các dự án có
tên dưới đây:
 Chương trình R&D Mũi nhọn Thế kỷ 21 (The 21st Century Frontier R&D
Program), đây là một chương trình đầy tham vọng sau dự án HAN;
 Dự án Tiên tiến Cấp cao quốc gia (The Highly Advanced National Project), dự
án HAN;
 Sáng kiến Nghiên cứu Sáng tạo (The Creative Research Initiative - CRI)
 Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Quốc gia (The National Research Laboratory -
NRL);
 Chương trình Phát triển Công nghệ Sinh học (Biotechnology Development
Program);
 Chương trình Hàng không và Vũ trụ (Space and Aeronautics Program).
 Chương trình Phát triển Công nghệ Nano (Nano Technology Development
Program);
 Chương trình R&D Năng lượng (Energy R&D Program).
1.2.1 Chƣơng trình R&D Mũi nhọn Thế kỷ 21
Đặc điểm chung
Chương trình này được xúc tiến từ năm 1999 với mục đích là để phát triển các công
nghệ cốt lõi và công nghệ mũi nhọn trong một số lĩnh vực có triển vọng. Các kế hoạch
của Chính phủ đã được xây dựng để hỗ trợ cho 20 dự án với tổng chi phí là 3,5 tỷ USD
tuân theo chương trình này. Có 10 dự án đã được khởi xướng và 10 dự án bổ sung
được xúc tiến vào năm 2002. Các dự án này được lựa chọn trong số các dự án có triển
vọng được tiến cử. Cũng giống như Dự án HAN, các dự án sẽ là sự kết hợp giữa
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, nhưng với một sự chú trọng lớn hơn nhằm
vào công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano và vật liệu mới.
Các đặc điểm nổi bật
Đặc điểm nổi bật nhất của Chương trình mũi nhọn đó là một nhà quản lý dự án sẽ là
người kiểm soát từng dự án và được trao quyền hành tương đối tự do trong việc phân
bổ các nguồn lực. MOST sẽ đánh giá dự án cứ sau ba năm dựa trên cơ sở những chứng
cớ “hiển nhiên, rõ ràng và định lượng” mà các nhà quản lý dự án thực hiện các mục
tiêu của họ.
Các nhà nghiên cứu chính được bổ nhiệm làm Giám đốc của mỗi dự án, họ là
những người chịu trách nhiệm về từng dự án được Chính phủ tài trợ 8 triệu USD trong
vòng 10 năm. Có 19 dự án đã được khởi xướng vào tháng 11 năm 2002, và ba dự án
được xúc tiến trong năm 2003.
Đặc điểm nổi bật nhất của chương trình đó là Giám đốc Dự án được trao toàn bộ
trách nhiệm về quản lý và điều hành tổng thể; trong đó bao gồm việc lựa chọn chi tiết
13
các đề tài nghiên cứu, giám sát các tiểu dự án và phân bổ kinh phí R&D để thực hiện
các mục tiêu của dự án.
Việc xây dựng một môi trường R&D sáng tạo và các hệ thống quản lý R&D minh
bạch đang là những vấn đề trước mắt. Về khía cạnh này, các hệ thống quản lý mới cần
được điều chỉnh cho phù hợp với Chương trình R&D Mũi nhọn Thế kỷ 21, là chương
trình kế tiếp Dự án Tiên tiến Cấp cao Quốc gia (HAN project).
Các chính sách cơ bản của Chương trình như sau:
1) Văn phòng quản lý dự án sẽ hoạt động một cách độc lập trong suốt quá trình
thực hiện dự án, trong đó có 3-4 chuyên gia có nhiệm vụ không chỉ giám sát
tiến độ thực hiện theo từng giai đoạn, mà còn tổ chức hệ thống nhằm tối đa hoá
hiệu quả của quá trình nghiên cứu.
2) Chính phủ đánh giá từng dự án ở mỗi giai đoạn (3-4 năm) dựa trên cơ sở chứng
cớ “hiển nhiên, rõ ràng và định lượng” mà các Giám đốc dự án đạt được các
mục tiêu của mình bằng cách thúc đẩy nhiệm vụ cơ bản theo các trào lưu công
nghệ thế giới. Trong giai đoạn đầu, đối với mỗi dự án có từ hai đến ba nhóm
nghiên cứu sẽ thực hiện công việc nghiên cứu theo cách cạnh tranh.
3) Đối với mỗi một dự án, trên 10% nguồn kinh phí của Chính phủ có thể sử dụng
vào hợp tác quốc tế để có thể tận dụng được khả năng sáng tạo công nghệ cao
nước ngoài và thúc đẩy sự tiến bộ năng lực cấp cao trong nước thông qua việc
thực hiện đồng nghiên cứu quốc tế, tiến hành nghiên cứu phụ, nghiên cứu
nhanh ở nước ngoài và mới các nhà khoa học nước ngoài, …
4) Mỗi một dự án thuộc chương trình này được vận hành một cách độc lập sử
dụng các hệ thống quản lý dự án theo các mục tiêu dựa vào trách nhiệm độc lập
của các giám đốc. Các giám đốc dự án có quyền dàn xếp các dự án cụ thể,
thành lập các nhóm nghiên cứu, phân chia kinh phí nghiên cứu và trách nhiệm
đánh giá nghiêm khắc.
Sự phát triển hệ thống quản lý dự án qua mạng (Web-Based) đã được áp dụng trong
chương trình này với mục đích là để áp dụng tính hiệu quả của chiến lược quản lý
thuộc khu vực tư nhân vào trong các chương trình nghiên cứu quốc gia. Với quan điểm
áp dụng tính hiệu quả của các dự án nghiên cứu khu vực tư nhân, hệ thống này cho
phép tính linh hoạt và dễ dàng sử dụng bởi nhân lực nghiên cứu. Thông qua Milestone
Management and Design Reviews (Đánh giá từng mốc đạt được trong quản lý và thiết
kế), hệ thống cho phép một sự giám sát có hiệu quả các dự án nghiên cứu thông qua sự
gia tăng tối thiểu ở chức năng quản lý. Kết quả thực hiện dự án được đánh giá theo các
mục tiêu của chương trình nghiên cứu tổng thể. Các hoạt động nghiên cứu chi tiết
được lên kế hoạch và giám sát trong Work Breakdown Structure (Cơ cấu phân chia
công việc). Hệ thống còn áp dụng chức năng quản lý ngân sách. Việc truyền bá và trao
đổi thông tin kỹ thuật cũng được cho phép giữa các nhà nghiên cứu tham gia đến từ
các doanh nghiệp, viện trường và các cộng đồng nghiên cứu.
14
Hệ thống này còn được hy vọng sẽ tạo điều kiện cho các dự án khác thuộc chương
trình và các chương trình R&D quốc gia khác. Có thể nhận thấy những lợi ích của hệ
thống như: giúp cho việc lập kế hoạch có hiệu quả thông qua sự tăng cường phân tích
tiền dự án; tối thiểu hoá những bất cập tiềm tàng thông qua việc quản lý chặt chẽ từng
giai đoạn dự án riêng biệt; thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và
cộng đồng nghiên cứu; và thúc đẩy trao đổi thông tin.
Những đặc điểm chính của các dự án trong Chương trình
 Các lĩnh vực công nghệ chiến lược tương lai
- Phân tích chức năng bộ gen người (99)
- Bộ điều biến sinh học (01)
- Proteome (protein học) (02)
- Thiết bị nano ở mức độ tera (một phần nghìn tỷ - 10
-12
)
- Cơ điện tử và chế tạo ở phạm vi nano (02)
- Công nghệ vật liệu cấu trúc nano (02)
- Công nghệ siêu dẫn ứng dụng (01)
- Công nghệ dựa trên cơ sở proton (02)
 Lĩnh vực công nghệ phúc lợi công cộng
- Nghiên cứu các nguồn nước bền vững (01)
- Tái chế chất thải công nghiệp (01)
- Làm giảm và cô lập cacbon dioxid (02)
 Lĩnh vực công nghệ tập trung truyền thống
- Đa dạng thực vật (00)
- Bộ gen chức năng cây trồng (01)
- Ứng dụng tế bào (02)
- Nghiên cứu bộ gen vi khuẩn và ứng dụng (02)
- Công nghệ thông minh điều khiển tự động (02)
- Chế biến vật liệu tiên tiến (01)
- Vi hệ thống trí tuệ (99)
- Hiển thị thông tin thế hệ tiếp theo (02)
1.2.2. Dự án Tiên tiến Cấp cao Quốc gia (dự án HAN)
Trước sự nổi lên của các công nghệ tiên tiến, Chính phủ Hàn Quốc đã khởi
xướng vào năm 1992 Dự án Tiên tiến Cấp cao Quốc gia (HAN). Dự án này là một
dự án R&D dài hạn và có quy mô lớn, được thiết kế như một chương trình liên Bộ
tuân theo một khuôn khổ cơ cấu chương trình R&D quốc gia. Dự án nhằm mục
đích tổ chức hoạt động nghiên cứu giữa Chính phủ và ngành công nghiệp để có thể
đuổi kịp các quốc gia G-7 trong các lĩnh vực công nghệ nhất định. Dự án HAN
nhằm vào phát triển các công nghệ công nghiệp chiến lược để đưa Hàn Quốc trở
thành một đất nước tự lực về KH&CN. Một lượng kinh phí là 3,2 tỷ USD đã được
đầu tư trong một giai đoạn 10 năm kết thúc vào năm 2001, tức là năm Dự án hoàn

Xem chi tiết: 303803


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét