Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

522 Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận từ nay đến 2020 



5
cực, hạn chế những tác động tiêu cực của du lòch lên các yếu tố môi trường, nội
dung cơ bản của du lòch sinh thái không đơn thuần là những hoạt động du lòch
diễn ra ở những vùng giàu tiềm năng về sinh thái tự nhiên, về giá trò văn hóa mà
tập trung vào mức độ trách nhiệm của con người đối với môi trường ; không chỉ
dừng lại ở mức độ thụ động là hạn chế tối đa các suy thoái môi trường do du lòch
tạo ra, mà còn phải chủ động đóng góp vào sự phát triển môi trường của các
vùng du lòch : “Du lòch sinh thái là loại hình du lòch dựa vào thiên nhiên và văn
hóa bản đòa gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát
triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng đòa phương”.
Giữa thập niên 90, xuất hiện khái niệm mới là phát triển du lòch bền vững.
WTO cho rằng :”Phát triển du lòch bền vững thỏa mãn những nhu cầu hiện tại
của du khách và các vùng đón khách trong khi vẫn bảo vệ và nâng cao các cơ hội
cho tương lai. Phát triển du lòch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các nguồn
tài nguyên theo một cách nào đó để vừa đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và
thẩm mỹ trong khi vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa, các quá trình sinh thái cơ bản, sự
đa dạng sinh học và các hệ thống đảm bảo sự sống”.
1.1.2 CHIẾN LƯC PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA VIỆT NAM
Với mục tiêu tổng quát là đưa ngành du lòch thành một ngành kinh tế mũi
nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái,
truyền thống văn hóa, lòch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ
sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế ; từng bước đưa Việt Nam trở thành một trung tâm du
lòch có tầm cỡ của khu vực ; chiến lược phát triển du lòch của nước ta giai đoạn
2001 – 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết đònh số 97/2002/QĐ-
TTg ngày 22/7/2001 đã đề ra một số nội dung chính :
Tốc độ tăng trưởng GDP của ngành du lòch bình quân trong thời kỳ này đạt
từ 11 – 11,5%/năm. Đến 2005 khách quốc tế vào Việt Nam du lòch từ 3 – 3,5
triệu lượt người, khách nội đòa từ 15 – 16 triệu lượt người, thu nhập du lòch đạt
trên 2 tỷ USD ; năm 2010 khách quốc tế đạt 5,5 – 6 triệu, khách nội đòa 25 – 26
triệu lượt người, thu nhập du lòch đạt 4 – 4,5 tỷ USD.
Về thò trường, vừa khai thác khách từ các thò trường quốc tế khu vực Đông
Á – Thái Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ kết hợp khai thác các thò trường Bắc Á,
Bắc Âu, Úc, New Zealand, các nước SNG và Đông Âu; vừa chú trọng khai thác
thò trường du lòch nội đòa.


6
Về đầu tư, ưu tiên đầu tư phát triển các khu du lòch tổng hợp quốc gia và
các khu du lòch chuyên đề; đẩy mạnh phát triển du lòch đối với các đòa bàn du lòch
trọng điểm. Các thành phố, đô thò du lòch phải đầu tư hợp lý, bảo đảm sự phát
triển hài hòa giữa phát triển đô thò với phát triển du lòch bền vững. Kết hợp đầu
tư nâng cấp, phát triển các điểm tham quan du lòch, cơ sở vật chất kỹ thuật du
lòch với đầu tư cho tuyên truyền, quảng bá và đào tạo phát triển nguồn nhân lực
du lòch.
Thực hiện việc hội nhập, hợp tác quốc tế về du lòch. Tăng cường củng cố
và mở rộng hợp tác song phương, đa phương với các tổ chức quốc tế, các nước có
khả năng và kinh nghiệm phát triển du lòch.
Về phát triển các vùng du lòch, chiến lược xác đònh có ba vùng :
Vùng du lòch Bắc Bộ : gồm các tỉnh, thành phố từ Hà Giang đến Hà Tónh, trung
tâm của vùng là Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long.
Vùng du lòch Bắc Trung Bộ : gồm các tỉnh, thành phố từ Quảng Bình đến
Quảng Ngãi. Huế và Đà Nẵng là trung tâm của vùng.
Vùng du lòch Nam Trung Bộ và Nam Bộ : gồm các tỉnh, thành phố từ Kon
Tum đến Cà Mau với hai Á vùng du lòch Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Trung tâm
của vùng là Thành phố Hồ Chí Minh và các đòa bàn tăng trưởng du lòch là : thành
phố Hồ Chí Minh – Nha Trang – Đà Lạt, thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ – Hà
Tiên – Phú Quốc, thành phố Hồ Chí Minh – Vũng Tàu – Phan Thiết. Sản phẩm
du lòch đặc trưng của vùng là du lòch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi để khai
thác thế mạnh du lòch của dải ven biển Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, du lòch
sông nước, du lòch sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Là một trong các khu du lòch trọng điểm của quốc gia ; một trong những
đòa bàn tăng trưởng du lòch của Á vùng du lòch Nam Trung Bộ, du lòch tỉnh Bình
Thuận được khẳng đònh là cần phải tập trung tạo ra sự phát triển nhanh, trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn vào sau năm 2010, góp phần quan trọng vào việc thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn tỉnh, thúc đẩy chuyển dòch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ ,CÁC CÔNG
CỤ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ
1.2.1 Vốn đầu tư và các công cụ huy động vốn đầu tư
1.2.1.1 Khái niệm về vốn đầu tư


7
Tài sản của một quốc gia bao gồm tài nguyên thiên nhiên, tài sản được sản
xuất ra và tích luỹ lại trong suốt quá trình hình thành và phát triển, nguồn nhân
lực và tri thức. Quá trình phát triển của mổi nước luôn đặt ra yêu cầu phải tạo ra
tài sản mới nhằm bù đắp những tài sản tiêu hao trong quá trình sử dụng, đồng
thời không ngừng tăng thêm khối lượng tài sản quốc gia. Để tạo ra tài sản mới
phải đầu tư những yếu tố cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh như công
cụ, máy móc, nguyên vật liệu, lao động, công nghệ… tất cả các yếu tố đó được
xem là nguồn vốn đầu tư để tạo ra thu nhập, tài sản cho quốc gia.
Vốn đầu tư hiểu theo nghóa rộng là toàn bộ nguồn lực đưa vào hoạt động
của nền kinh tế - xã hội, gồm máy móc thiết bò, nhà xưởng, lao động, tài nguyên,
đất đai, khoa học công nghệ Vốn hiểu theo nghóa hẹp là nguồn lực được thể
hiện bằng tiền của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và của quốc gia.
Hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn để phục hồi và tạo ra năng lực sản
xuất kinh doanh mới. Đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố phục vụ
cho quá trình sản xuất ra hàng hoá và dòch vụ để làm tăng tài sản quốc gia.
1.2.1.2 Nhu cầu vốn đầu tư
Nhu cầu vốn đầu tư phát sinh do yêu cầu:
- Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.
Cơ sở hạ tầng được coi là nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi nước, mỗi đòa phương. Ở các nước đang phát triển, do trình độ phát triển
kinh tế còn thấp nên các cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, hệ thống điện,
cấp nước, bưu chính viễn thông … còn thiếu thốn và yếu kém, do đó cần đầu tư
một lượng vốn rất lớn cho cơ sở hạ tầng, nhưng bản thân các nước này lại đang
trong tình trạng tích lũy thấp, thiếu vốn , vì vậy nhu cầu thu hút nguồn vốn đầu tư
từ bên ngoài là rất cấp bách.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy việc tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ
tầng sẽ có tác động mạnh mẽ trở lại đến việc thu hút vốn đầu tư cho phát triển
kinh tế . Một nước có cơ sở hạ tầng tốt cùng với các chính sách ưu đãi khác sẽ có
lợi thế hơn các nước khác trong việc thu hút dòng chảy của vốn đầu tư quốc tế.
Vì vậy các nước rất chú trọng và dành một phần lớn ngân sách và nguồn viện trợ
phát triển chính thức (ODA) để chi cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng. Bên
cạnh đó, để giảm gánh nặng cho ngân sách, chính phủ thường cho phép tư nhân


8
tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng, phát hành trái phiếu công trình, thành lập quỹ đầu
tư , quỹ phát triển hạ tầng…
- Đầu tư vốn vào các doanh nghiệp để sản xuất ra hàng hoá và dòch vụ:
Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế , các nước rất
coi trọng việc thu hút vốn đầu tư cho các doanh nghiệp. Vốn đầu tư dùng để
thành lập mới, đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư mở rộng và cải tạo nhà xưởng,
trang thiết bò. Đầu tư cho các doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo
ra công ăn việc làm, cung cấp hàng hoá và dòch vụ cho xã hội, tạo nguồn thu cho
ngân sách.
- Đầu tư cho giáo dục và đào tạo: Đầu tư cho giáo dục và đào tạo nhằm
phát triển tiềm năng con người có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của
nền kinh tế . Vì vậy, những nước có thành công nổi bật trong kinh tế thường là
những nước chú trọng đầu tư lớn cho giáo dục đào tạo. Nhận thức được tầm quan
trọng của giáo dục đào tạo đối với sự phát triển kinh tế , chính phủ các nước
thường dành một phần đáng kể ngân sách để chi cho giáo dục đào tạo. Cùng với
sự đầu tư của chính phủ, các nước còn cho phép huy động thêm các nguồn đầu tư
khác như tư nhân, viện trợ, các tổ chức phi chính phủ … để phát triển giáo dục và
đào tạo.
- Đầu tư cho khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ đóng vai trò nền
tảng và động lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc đầu tư vốn
cho khoa học công nghệ sẽ tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển nhanh
và bền vững. Phát triển khoa học công nghệ là hoạt động đòi hỏi phải đầu tư vốn
lớn, lâu dài, phải có đủ vốn và chấp nhận rủi ro trong quá trình nghiên cứu, triển
khai. Hoạt động khoa học công nghệ chủ yếu dựa vào các nguồn: Vốn do ngân
sách nhà nước cấp; Kinh phí thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học; Vốn
do liên doanh, liên kết với các tổ chức khác và Vốn viện trợ của các tổ chức
chính phủ, phi chính phủ, tài trợ của cá nhân trong và ngoài nước.
1.2.1.3 Các nguồn huy động vốn đầu tư
Trong tổng thu nhập của mỗi nước, sau khi trừ đi phần tiêu dùng, còn lại là
phần để bù đắp và tích luỹ. Quỹ bù đắp và quỹ tích luỹ chính là nguồn gốc hình
thành vốn đầu tư , trong đó quỹ tích luỹ là bộ phận quan trọng nhất.
Quỹ tích luỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Nền kinh tế càng
phát triển thì tỉ lệ tích luỹ càng cao. Đối với các nước đang phát triển, do thu


9
nhập còn thấp nên quy mô và tỉ lệ tích lũy đều thấp, trong khi nhu cầu về vốn
đầu tư rất cao, do đó rất cần đến nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Mặt khác,
trong xu hướng chu chuyển vốn quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, ngay cả
các nước phát triển vẫn cần có sự kết hợp giữa vốn đầu tư trong và ngoài nước để
phát triển kinh tế . Như vậy vốn đầu tư có được của mỗi nước hình thành từ tiết
kiệm trong nước và tiết kiệm của nước ngoài. Tiết kiệm trong nước bao gồm tiết
kiệm của Nhà nước, tiết kiệm của doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư là nguồn
hình thành vốn đầu tư trong nước. Tiết kiệm của nước ngoài hình thành vốn đầu
tư nước ngoài dưới các dạng đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
1) Nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn trong nước thể hiện sức mạnh nội lực của một quốc gia. Nguồn
vốn này có ưu điểm là ổn đònh, bền vững, chi phí thấp, giảm thiểu được rủi ro và
hậu quả xấu đối với nền kinh tế do những tác động từ bên ngoài. Mặc dù ngày
nay các dòng vốn nước ngoài ngày càng trở nên đặc biệt không thể thiếu được
đối với các nước đang phát triển, nhưng nguồn vốn trong nước vẫn giữ vò trí quyết
đònh. Nguồn vốn đầu tư trong nước hình thành từ tiết kiệm của ngân sách nhà
nước, tiết kiệm của các doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư.
Tiết kiệm của ngân sách nhà nước chính là số chênh lệch dương giữa tổng
các khoản thu mang tính không hoàn lại (chủ yếu là các khoản thu thuế) với tổng
chi tiêu dùng của ngân sách. Tổng thu ngân sách sau khi chi cho các khoản chi
thường xuyên, còn lại hình thành nguồn vốn đầu tư phát triển.
Như vậy, vốn đầu tư của Nhà nước là một phần tiết kiệm của ngân sách để
chi cho đầu tư phát triển. Nguồn vốn này phụ thuộc vào khả năng tập trung thu
nhập quốc dân vào ngân sách và quy mô chi tiêu dùng của nhà nước. Đối với các
nước đang phát triển, do tiết kiệm của nền kinh tế bò hạn chế bởi yếu tố về thu
nhập bình quân đầu người, cho nên, để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và mở rộng
đầu tư đòi hỏi nhà nước phải gia tăng tiết kiệm NSNN trên cơ sở kết hợp chính
sách thuế và chi tiêu. Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng, ổn đònh và có tính
đònh hướng cao đối với các nguồn vốn đầu tư khác.
Tiết kiệm của các doanh nghiệp là số lãi ròng có được từ kết quả kinh
doanh. Đây là nguồn tiết kiệm cơ bản để các doanh nghiệp tạo vốn cho đầu tư
phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Qui mô tiết kiệm của doanh nghiệp phụ
thuộc vào các yếu tố trực tiếp như: hiệu quả kinh doanh; chính sách thuế; sự ổn


10
đònh kinh tế vó mô…
Tiết kiệm của dân cư là phần tiết kiệm của các hộ gia đình và các cá
nhân, tổ chức đoàn thể xã hội. Đây là phần còn lại của thu nhập sau khi đã đóng
thuế và sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Mức độ tiết kiệm của dân cư phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: mức thu nhập bình quân đầu người, chính sách lãi suất,
chính sách thuế và sự ổn đònh kinh tế vó mô. Tiết kiệm của dân cư giữ vai trò
quan trọng trong hệ thống tài chính, do khả năng chuyển hoá nhanh chóng thành
nguồn vốn cho đầu tư thông qua các hình thức gởi tiết kiệm, mua chứng khoán,
trực tiếp đầu tư Tiết kiệm dân cư cũng dễ dàng chuyển thành nguồn vốn đầu tư
của Nhà nước bằng cách mua trái phiếu chính phủ, hoặc chuyển thành nguồn vốn
đầu tư của doanh nghiệp qua việc mua trái phiếu, cổ phiếu của các công ty phát
hành.
Tóm lại, tiết kiệm là một quá trình nền kinh tế dành ra một phần thu nhập
ở hiện tại để tạo ra nguồn vốn cung ứng cho đầu tư phát triển, qua đó nâng cao
hơn nữa nhu cầu tiêu dùng trong tương lai. Tuy vậy, đối với những nền kinh tế
đang chuyển đổi, bước đầu thực hiện chính sách công nghiệp hóa do nguồn tiết
kiệm trong nước thấp không đáp ứng đủ nhu cầu vốn nên cần phải thu hút nguồn
vốn nước ngoài để tạo ra cú hích cho sự đầu tư phát triển nền kinh tế.
2) Nguồn hình thành vốn đầu tư nước ngoài
So với nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài có ưu thế là mang lại
ngoại tệ cho nền kinh tế. Tuy vậy, nguồn vốn nước ngoài lại luôn chứa ẩn những
nhân tố tiềm tàng gây bất lợi cho nền kinh tế, đó là sự lệ thuộc; nguy cơ khủng
hoảng nợ; sự tháo chạy đầu tư; sự gia tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm trong
nước…Như vậy, vấn đề huy động vốn nước ngoài đặt ra những thử thách không
nhỏ trong chính sách huy động vốn của các nền kinh tế đang chuyển đổi, đó là:
một mặt, phải ra sức huy động vốn nước ngoài để đáp ứng tối đa nhu cầu vốn cho
công nghiệp hóa; mặt khác,phải kiểm soát chặc chẽ sự động vốn nước ngoài để
ngăn chặn khủng hoảng. Để vượt qua những thử thách đó đòi hỏi nhà nước phải
sử dụng tốt các công cụ tài chính trong việc ổn đònh hoá môi trường kinh tế vó
mô, tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi cho sự vận động vốn nước ngoài , điều
chỉnh và lựa chọn các hình thức thu hút vốn sao cho có lợi cho nền kinh tế.
Về bản chất, vốn nước ngoài cũng được hình thành từ tiết kiệm của các
chủ thể kinh tế nước ngoài và được huy động thông qua các hình thức cơ bản sau:


11
a. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào để thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh, góp vốn vào các công
ty, xí nghiệp liên doanh hoặc thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài hình thành từ tiết kiệm của tư nhân và các
công ty nước ngoài đầu tư vốn vào một nước khác nhằm khai thác lợi thế so
sánh, tận dụng các yếu tố lao động, tài nguyên của đòa phương, tiết kiệm chi phí
vận chuyển để tăng lợi nhuận cho việc đầu tư .
Đối với các nước đang phát triển, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mang ý
nghiã quan trọng trong việc tạo nên cú hích ban đầu cho sự tăng trưởng, bên cạnh
nguồn vốn ngoại tệ, FDI còn mang theo công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và
khả năng tiếp cận thò trường thế giới. Vì vậy, thu hút FDI đang trở thành hình
thức huy động vốn phổ biến , tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang
phát triển.
b. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
Vốn đầu tư gián tiếp là những khoản đầu tư thực hiện thông qua các hoạt
động cho vay và viện trợ. Nguồn vốn có thể là của chính phủ các nước, có thể là
của các tổ chức quốc tế được huy động thông qua các hình thức cơ bản sau:
Tài trợ phát triển chính thức (ODA): Đây là nguồn vốn thuộc chương trình
hợp tác phát triển do chính phủ các nước ngoài hổ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ cho một nước
tiếp nhận. Nguồn vốn ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại, các khoản cho vay
với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, khối lượng vốn vay và thời hạn thanh
toán, nhằm vào hổ trợ cán cân thanh toán, hổ trợ các chương trình, dự án…
Nguồn vốn ODA tuy có ưu điểm về chi phí sử dụng, nhưng các nước tiếp
nhận viện trợ thường xuyên phải đối mặt với những thử thách rất lớn đó là gánh
nặng nợ quốc gia trong tương lai, chấp nhận những điều kiện và ràng buộc khắt
khe về thủ tục chuyển giao vốn, đôi khi còn gắn cả những điều kiện về chính trò.
Bên cạnh đó, do trình độ quản lý của các nước đang phát triển còn thấp cho nên
hiệu quả sử dụng nguồn vốn này không cao, làm cho nhiều nước lâm vào cảnh nợ
nần chồng chất và nền kinh tế không phát triển được. Vì vậy, vấn đề quan trọng
là cần phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA để đạt được
những mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra.


12
+ Phát hành chứng khoán trên thò trường tài chính quốc tế. Ưu điểm của
phương thức này là huy động vốn trực tiếp , không phải thông qua các tổ chức tài
chính trung gian nên chi phí sử dụng vốn thấp hơn các khoản vay tín dụng. Người
đi vay có thể là doanh nghiệp và chính phủ. Tuy vậy, việc tìm kiếm vốn trên thò
trường tài chính quốc tế vẫn có nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là các tiêu
chuẩn tín nhiệm của chứng khoán để được chấp nhận giao dòch tại các thò trường
tài chính quốc tế. Vì các mức tiêu chuẩn tín nhiệm đòi hỏi rất cao nên các
Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO: Non-Government
Organization) là các khoản viện trợ không hoàn lại. Trước đây loại viện trợ này
chủ yếu là vật chất, phục vụ cho mục đích nhân đạo như cung cấp thuốc men cho
các trung tâm y tế, chổ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên tai… Hiện nay loại
viện trợ này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài
hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia như huấn luyện những người làm công tác
bảo vệ sức khỏe, thiết lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn…
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp được sử dụng có hiệu quả sẽ có tác dụng thúc
đẩy, khuyến khích và tạo điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp. Đối với các nước
đang phát triển, nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài là nguồn vốn rất quý
giá, cần phải tận dụng và khai thác có hiệu quả, tạo thành đòn bẩy kích thích
tăng trưởng kinh tế .
3) Huy động qua thò trường vốn
+ Phát hành chứng khoán trên TTCK trong nước. Với sự chuyên môn hóa
về mua bán các loại chứng khoán, TTCK được xem như một cơ sở hạ tầng tài
chính để huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của công chúng trong và ngoài nước,
tạo nên nguồn vốn đầu tư trung dài hạn cho nền kinh tế. So với hình thức huy
động qua ngân hàng, TTCK huy động vốn với phạm vi rộng rãi và linh hoạt hơn,
có thể đáp ứng nhanh chóng những nhu cầu khác nhau của người cần vốn, đảm
bảo về hiệu quả và thời gian lựa chọn. Còn đối với các nhà đầu tư, trên TTCK,
các hình thức bỏ vốn của họ trở nên linh hoạt, vì vậy, hạn chế tối đa những rủi ro
trong đầu tư…Chính những ưu điểm đó mà ngày nay TTCK trở thành một kênh
huy động vốn nước ngoài rất hiệu quả; hơn nữa nó còn tạo điều kiện thuận lợi
cho nền kinh tế trong nước hoà nhập nền kinh tế thế giới. Trong vòng hơn mười
năm trở lại đây, đầu tư vốn quốc tế đã không còn tập trung xung quanh các công
cụ truyền thống thông qua hệ thống tài chính trung gian. Thay vào đó, đầu tư vào
TTCK đã chiếm tới 80% chu chuyển vốn trên thò trường tài chính quốc tế.


13
doanh nghiệp ở các mức thông thường khó đạt được, do vậy các loại chứng khoán
lưu hành trên thò trường tài chính quốc tế phổ biến là trái phiếu của chính phủ.
Ngoài ra, việc huy động vốn nước ngoài còn được thực hiện thông qua các hoạt
động thuê tài chính; tín dụng thương mại; tín dụng ngân hàng…
Tóm lại vốn đầu tư chủ yếu được từ hai nguồn đó là nguồn vốn trong nước
và nguồn vốn ngoài nước. Trên cơ sở đó, đòi hỏi nền kinh tế phải phát triển các
công cụ tài chính để tổ chức khai thác và thực hiện huy động vốn, đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển ổn đònh và bền vững.
1.2.1.3.4 Các công cụ huy động vốn đầu tư
Huy động vốn đầu tư là quá trình tổ chức khai thác các nguồn lực tài chính
đưa vào phục vụ cho sự đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Và do
vậy, suy cho cùng đối sách của chính sách huy động vốn là hướng vào nâng cao tỉ
lệ tiết kiệm và đầu tư từ các khu vực kinh tế để gia tăng thêm khối lượng vốn mới
cho nền kinh tế. Các công cụ huy động vốn thường được sử dụng là:
1) Các công cụ thuộc chính sách tài chính - tiền tệ
+Thuế: Thuế là công cụ để nhà nước huy động, tập trung các nguồn lực
tài chính của xã hội vào ngân sách dưới hình thức cưỡng chế, bắt buộc. Tạo lập
nguồn thu cho NSNN là chức năng cơ bản của thuế. Theo kinh nghiệm phát triển,
để có được nguồn thu từ thuế không những đáp ứng cơ bản các nhu cầu chi tiêu
dùng mà còn dành ra một phần thỏa đáng tạo nguồn vốn cho sự đầu tư phát triển,
thì đòi hỏi nhà nước phải thiết lập một hệ thống thuế có hiệu quả, được xây dựng
dựa trên các nguyên tắc cơ bản: Thuế phải thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của
quốc gia, Thuế phải có độ nổi và tính ổn đònh, Thuế phải đảm bảo tính trung lập
và đơn giản.
+ Tín dụng : Tín dụng được xem là chiếc cầu nối giữa các nguồn cung cầu
về vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Bằng việc huy động các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi từ các cá nhân, các tổ chức kinh tế để bổ sung kòp thời cho những doanh
nghiệp, cá nhân kể cả ngân sách đang gặp thiếu hụt về vốn trên nguyên tắc có
hoàn trả, các tổ chức tín dụng góp phần quan trọng trong việc điều tiết các nguồn
vốn tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bò gián đoạn, đồng
thời còn giúp cho các doanh nghiệp bổ sung vốn đầu tư để mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, từ đó thúc đẩy kinh tế
phát triển. Tín dụng bao gồm tín dụng nhà nước và tín dụng ngân hàng.


14
Xét trên góc độ huy động vốn, tín dụng nhà nước là hoạt động đi vay do
nhà nước tiến hành nhằm cân đối ngân sách khi mà nguồn thu thuế và các nguồn
khác không đáp ứng đầy đủ các nhu cầu chi tiêu của ngân sách. Tín dụng nhà
nước giúp nhà nước huy động và tập trung được một nguồn thu lớn tạo điều kiện
cho ổn đònh kinh tế vó mô, phân bổ lại nguồn lực tài chính, nâng cao nguồn vốn
tập trung để thoả mãn nhu cầu đầu tư của nhà nước.
Tín dụng nhà nước được thực hiện nhằm vay nợ trong nước thông qua các
công cụ như công trái, tín phiếu ngắn hạn, trái phiếu dài hạn phát hành trong
nước. Bằng việc phát hành các chứng khoán này, nhà nước cung cấp cho thò
trường tài chính một khối lượng hàng hoá lớn, ít rủi ro làm phong phú thêm sản
phẩm để phát triển thò trường.
Tín dụng nhà nước cũng được thực hiện nhằm vay nợ nước ngoài bằng việc
vay từ nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA, phát hành trái phiếu của nhà
nước trên thò trường quốc tế. Tín dụng nhà nước là một kênh huy động vốn cần
thiết và quan trọng để bù đắp bội chi ngân sách và tạo nguồn vốn đầu tư . Tuy
nhiên việc vay nợ phải được kiểm soát một cách chặt chẽ để tránh tình trạng vay
quá giới hạn cho phép, dẫn đến áp lực nặng nề của việc trả nợ, cũng như mất cân
đối giữa đầu tư của ngân sách và đầu tư của khu vực doanh nghiệp và dân cư
làm gia tăng lãi suất huy động vốn, gây hạn chế việc vay vốn đầu tư .
Tín dụng ngân hàng là công cụ thu hút vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp
và dân cư để cho vay. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức trung gian tín
dụng bằng việc cho vay những nguồn tiền đã huy động được đã cung cấp cho
nền kinh tế một khoản vốn đầu tư cần thiết để phát triển. Bên cạnh việc thực
hiện nghiệp vụ truyền thống là vay và cho vay các ngân hàng còn thực hiện
nghiệp vụ đầu tư vốn dưới các hình thức đầu tư trực tiếp như hùn vốn liên doanh,
liên kết, thành lập công ty, xí nghiệp bằng vốn tự có của mình; hoặc đầu tư gián
tiếp như sử dụng các nguồn vốn huy động có thời hạn và vốn tự có để đầu tư vào
cổ phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác, và hưởng thu nhập qua chênh
lệch giá trên thò trường thứ cấp.
Trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng, quá
trình điều tiết và chu chuyển vốn đã vượt khỏi giới hạn của một quốc gia làm
hình thành các quan hệ tín dụng quốc tế. Như vậy tín dụng không chỉ là một kênh
quan trọng thu hút vốn đầu tư từ trong nước mà còn là một nhân tố thúc đẩy huy
động vốn đầu tư từ nước ngoài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét