Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các DNTM nhà nước

Với một dạng sản phẩm có những đặc trng riêng về mục đích sử dụng, đối
tợng tiêu thụ, tính chất kỹ thuật do đó cách thức trao đổi cũng khác nhau:
Cho không: là việc cung cấp các sản phẩm cho các thành viên để đáp ứng
nhu cầu của họ mà không đòi hỏi bất kỳ sự hoàn trả nào, chẳng hạn nh các hoạt
động viện trợ nhân đạo, quà tặng, trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội
Cung ứng cho các lợi ích xã hội: Đây là dạng cung cấp sản phẩm với mục
đích thoả mãn các nhu cầu công cộng, mang tích chất xã hội. Với hình thức này
tất cả các thành viên trong xã hội đều phải có trách nhiệm đóng góp để thanh
toán chi trả cho những nhu cầu đó nh các nhu cầu quốc phòng an ninh, công tác
quản lý xã hội, các sản phẩm hàng hóa công cộng.
Trao đổi sản phẩm thông qua mua bán hàng hóa trên thị trờng: Hình thức
trao đổi này là phổ biến nhất. Với hình thức trao đổi này, các sản phẩm hàng hóa
trong xã hội đều đợc trao đổi thông qua hành vi mua - bán bằng đồng tiền đợc
diễn ra trong không gian và thời gian nhất định (thị trờng). Hình thức trao đổi đó
là thơng mại.
Thơng mại có thể đợc hiểu theo nhiều cách khác nhau:
+ Thơng mại là sự trao đổi hàng hóa thông qua mua - bán bằng đồng tiền
trong nền kinh tế. Nh vậy, ở đâu có mua bán, ở đó có thơng mại. Thơng mại đồng
nghĩa với mua bán.
+ Thơng mại cũng đợc hiểu là một hành vi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
giữa những ngời mua và ngời bán để thoả mãn nhu cầu của mỗi ngời.
+ Thơng mại có thể là một hoạt động. Hoạt động thơng mại bao gồm một số
khâu hoặc tất cả các khâu của hành vi thơng mại, có thể do một cá nhân hoặc một
tổ chức hoặc toàn xã hội thực hiện.
Nhìn chung có nhiều cách hiểu khác nhau về thơng mại song có thể khái
quát thơng mại dới các góc độ khác nhau:
Thơng mại, hiểu theo nghĩa hẹp, là quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ
trên thị trờng, là lĩnh vực phân phối và lu thông hàng hóa. Hành vi thơng mại thể
hiện ở nhiều dạng khác nhau. Theo Luật Thơng mại, các hình vi thơng mại bao
gồm: mua bán hàng hóa, đại diện cho thơng nhân; môi giới thơng mại, uỷ thác
mua bán hàng hóa, đại lý mua bán hàng hoá, gia công thơng mại, đấu giá hàng
hóa, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa, khuyến mại, quảng cáo th-
ơng mại, trng bày giới thiệu hàng hóa và hội chợ triển lãm thơng mại.
Theo nghĩa rộng, thơng mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị
trờng. Thơng mại đợc hiểu nh các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu lợi nhuận của
các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trờng. ở góc độ này, thơng mại đồng
nghĩa với kinh doanh. Cách hiểu này trùng hợp với cách hiểu của các nớc nh Anh,
Pháp, Nga. Theo từ điển Nga- Việt, xuất bản 1977 thì TB đợc hiểu là nền
(ngành, nghề, việc, sự) thơng nghiệp, thơng mại, buôn bán, mua bán mậu dịch [24,
tr 452].
Kinh doanh thơng mại [12, 39]
Nền kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa
ngày càng sâu rộng với quy mô, cơ cấu ngày càng lớn, đa dạng, phong phú làm
xuất hiện lĩnh vực kinh doanh mới - kinh doanh thơng mại. Kinh doanh thơng mại
đợc hiểu là sự đầu t tiền của, công sức của cá nhân, một tổ chức vào việc mua, bán
hàng hóa nhằm thu lợi nhuận.
Nói đến kinh doanh thơng mại là nói đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực lu thông hàng hóa. Chủ thể kinh doanh (cá nhân, tổ chức) có thể đầu t một
phần, đa số hoặc toàn bộ nguồn lực của mình để thực hiện một, một số hoặc toàn
bộ các hành vi thơng mại, buôn bán. Dù biểu hiện dới hình thức nào thì kinh
doanh thơng mại đòi hỏi các yêu cầu sau:
- Phải có vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là toàn bộ tài sản (thể hiện bằng
tiền) mà các chủ thể huy động vào hoạt động của mình. Đó là các khoản vốn bằng
tiền và các tài sản khác nh nhà xởng, kho tàng, cửa hàng Tuỳ thuộc vào thành
phần kinh tế tham gia kinh doanh mà nguồn vốn sẽ đợc hình thành theo các phơng
thức khác nhau, có thể do nhà nớc cấp, do tự đóng góp vốn, do liên doanh, do tích
luỹ, do vay dới các hình thức khác nhau. Có vốn mới thực hiện đợc chức năng lu
thông hàng hóa, thực hiện đợc mua để bán các sản phẩm hàng hoá trên thị trờng.
- Thực hiện mua - bán hàng hoá. ở đây, "các đơn vị kinh doanh thơng mại
không phải mua hàng hóa để thoả mãn nhu cầu của mình mà mua hàng hóa để
bán lại cho ngời khác, đáp ứng các nhu cầu của họ. Việc mua để bán này đợc
thực hiện với nhiều hình thức khác nhau phù hợp với điều kiện kinh doanh cụ thể
của mỗi đơn vị và chức năng của các đơn vị kinh doanh thơng mại. Hay nói một
cách khác, kinh doanh thơng mại phải thực hiện việc buôn bán hàng hóa phù hợp
với điều kiện môi trờng kinh doanh của mỗi đơn vị.
- Kinh doanh thơng mại sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải đảm bảo bảo toàn
đợc vốn kinh doanh và có lợi nhuận (lãi). Việc đảm bảo vốn kinh doanh cho doanh
nghiệp là yêu cầu bắt buộc để thực hiện tái kinh doanh, nhng mới chỉ ở mức độ
giản đơn. Trong điều kiện kinh tế thị trờng, để tăng trởng, phát triển, để thực hiện
mục tiêu an toàn và có vị thế trong cạnh tranh, kinh doanh phải có lãi. Lợi nhuận
doanh nghiệp là nguồn vốn quan trọng để tích luỹ, tái kinh doanh mở rộng. Theo
quy luật của kinh doanh hàng hóa, lợi nhuận của chu kỳ kinh doanh sau bao giờ
cũng phải lớn hơn lợi nhuận kỳ trớc. Công thức lu chuyển T- H- T (trong đó T=
T + T) mới thực sự là yêu cầu, là động lực cho hoạt động kinh doanh của các
doanh nghịêp. Lợi nhuận trong kinh doanh thơng mại đợc thực hiện trực tiếp từ
hành vi mua - bán.
1.1.1.2. Cơ sở của kinh doanh thơng mại [7]
Kinh doanh thơng mại hình thành bắt nguồn từ phân công lao động xã hội
và chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất (TLSX) - cơ sở của sản xuất hàng
hóa. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quá trình tái sản xuất xã hội
bao gồm: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Sản xuất là khâu khởi đầu,
tiêu dùng là khâu kết thúc, phân phối và trao đổi là khâu trung gian.
Phân công lao động xã hội là quá trình chuyên môn hóa ngời sản xuất. Mỗi
ngời chỉ chuyên sản xuất một hay một số sản phẩm thậm chí chỉ sản xuất một
bộ phận (chi tiết) của sản phẩm. Để thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong phú của mỗi
thành viên nên họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau, tức là sự chuyên môn hóa sản
xuất gây ra sự cách biệt về mặt không gian, thời gian giữa những ngời sản xuất cá
biệt và để thoả mãn nhu cầu của đời sống, sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải có sự
trao đổi giữa những ngời sản xuất với nhau. Xét trên phạm vi xã hội, sản xuất đồng
nghĩa với tiêu dùng. Muốn sản xuất ra sản phẩm này, phải tiêu dùng, sử dụng loại
sản phẩm khác mà bản thân họ không tự chế tạo ra đợc. Nhờ sự trao đổi này mà
sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trờng, trong xã hội tồn tại sản xuất và lu
thông hàng hóa. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng Nên hiểu sản xuất hàng hóa là một tổ
chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm đều do những ngời sản xuất cá thể riêng lẻ
sản xuất ra. Mỗi ngời chuyên làm một thứ sản phẩm nhất định, thành thử muốn
thoả mãn nhu cầu của xã hội thì cần phải mua bán sản phẩm, vì vậy, sản phẩm trở
thành hàng hóa mua bán trên thị trờng [28, tr 22]
Phân công lao động xã hội đòi hỏi phải trao đổi sản phẩm giữa những ngời
sản xuất với nhau. Đây là điều kiện cần của trao đổi hàng hóa. Nhng bản thân sự
phân công lao động xã hội không quyết định sự trao đổi phải đợc tiến hành theo
hình thức nào. Chỉ khi chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất làm cho những
ngời sản xuất độc lập với nhau về kinh tế thì trao đổi hàng hóa mới ra đời.
Chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất làm cho các sản phẩm sản xuất
ra thuộc quyền chiếm hữu của từng ngời sản xuất riêng lẻ, không ai có quyền lấy
không của họ. Vì vậy, đòi hỏi sự trao đổi sản phẩm giữa những ngời sản xuất với
nhau phải đợc tiến hành trên cơ sở trao đổi phải hoàn lại, không chỉ thế mà còn
phải hoàn lại với một vật có giá trị tơng đơng. Từ đó sản phẩm trở thành hàng hóa
trên thị trờng; trao đổi sản phẩm trở thành trao đổi hàng hóa - tiền tệ.
Sản xuất và lu thông hàng hóa là những phạm trù lịch sử. Sự hình thành
ngành kinh doanh thơng mại là nấc thang cao nhất trong những nấc thang của quá
trình phát triển nền kinh tế hàng hóa. Kinh doanh thơng mại đợc coi là đỉnh cao, là
hình thái phát triển cao của trao đổi và lu thông hàng hóa
Kinh doanh thơng mại: Khi quá trình phân công lao động trở nên sâu sắc, ở
trình độ cao thì mức độ chuyên môn hóa của nền sản xuất xã hội cũng phát triển
mạnh mẽ, hình thái các ngành với các chức năng rất cụ thể. Lu thông hàng hóa đ-
ợc tách thành một chức năng độc lập khỏi chức năng sản xuất. Qúa trình này tất
yếu đòi hỏi một sự hao phí lao động nhất định trong quan hệ trao đổi. Bộ phận lao
động này thực hiện chức năng lu thông sản phẩm hàng hoá từ các nhà sản xuất đến
nơi tiêu dùng, thực hiện hành vi mua để bán. Tiền tệ đóng vai trò là phơng tiện để
tổ chức quá trình lu thông hàng hóa của xã hội.
Công thức tổng quát của kinh doanh thơng mại là T- H- T với T= T+ T.
Đặc trng của hình thức này là:
+ Đã xuất hiện tầng lớp trung gian (thơng nhân, tổ chức kinh doanh thơng
mại). Những trung gian này dùng tiền để mua hàng, sau đó bán hàng để thu tiền
về. Khoản tiền bán hàng lớn hơn khoản tiền ứng trớc để mua hàng. ở đây, kinh
doanh thơng mại (T- H- T): mua để bán hay vì bán mà phải mua.
+ Kinh doanh thơng mại một mặt làm tăng thêm khả năng mất cân đối giữa
cung và cầu, giữa sản xuất với tiêu dùng, mặt khác chính nó cũng có khả năng
điều hoà cung cầu trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, làm cân đối giữa sản xuất và
tiêu dùng, giữa các ngành, các vùng và hơn nữa giữa các quốc gia.
Nh vậy, cơ sở của kinh doanh thơng mại là sự phân công lao động xã hội, là
chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất và sự xuất hiện tiền tệ trong quá trình lu
thông hàng hoá.
Phân công lao động xã hội là điều kiện cần để hình thành sự trao đổi sản
phẩm giữa các nhà sản xuất.
Chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất hình thành quyền độc lập về
kinh tế giữa các nhà sản xuất với nhau. Do đó, việc trao đổi sản phẩm phải đợc
tính toán phù hợp với lợi ích kinh tế của mỗi nhà sản xuất.
Sự xuất hiện tiền tệ làm môi giới trung gian làm cho quá trình lu thông -
trao đổi sản phẩm diễn ra thuận lợi hơn, trôi chảy và kịp thời hơn khi nền sản xuất
xã hội phát triển nhanh, mạnh cả về quy mô, không gian và cơ cấu sản phẩm.
Trình độ phân công lao động ngày càng sâu sắc buộc các nhà sản xuất phải
từ bỏ một phần hoặc hoàn toàn chức năng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của mình và
hình thành một tầng lớp trung gian độc lập với sản xuất, thực hiện chỉ một chức
năng lu thông hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng xã hội - đó là các
tổ chức kinh doanh thơng mại - một loại hình tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh
vực lu thông hàng hóa. Sự xuất hiện của loại hình kinh doanh thơng mại độc lập
không phủ định lu thông hàng hóa mà trái lại nó lấy lu thông hàng hóa làm chức
năng hoạt động của mình, làm cho hàng hóa lu thông ngày càng rộng rãi hơn,
thuận lợi, nhanh chóng hơn.
Với t cách là một ngành kinh tế tơng đối độc lập trong nền kinh tế quốc
dân, việc hình thành, phát triển kinh doanh thơng mại gắn liền, phụ thuộc vào sự
phát triển của phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Cũng cần lu ý rằng kinh doanh thơng mại không trực tiếp sáng tạo ra của
cải vật chất, nó chỉ phục vụ quá trình sản xuất và tiếp tục quá tình sản xuất trong
khâu lu thông mà thôi. Có nghĩa là kinh doanh thơng mại thực hiện việc mua, bán
hàng hoá, đảm nhận các dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ thuần tuý và cả các dịch vụ
có tính chất sản xuất).
Những dịch vụ thuần tuý không làm tăng thêm giá trị của hàng hóa, nó chỉ
phục vụ và gắn liền với quá trình mua bán hàng hóa nhằm thay đổi hình thái giá trị
của hàng hóa từ hàng sang tiền và ngợc lại.
Những dịch vụ mang tính chất sản xuất (vận chuyển, bảo quản, gia công,
chế biến, phân loại hàng hóa, đóng gói làm đồng bộ sản phẩm ) nhằm bảo tồn và
hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa. Do đó, các dịch vụ này làm tăng thêm giá
trị của hàng hoá và thờng chiếm chủ yếu. Các tổ chức kinh doanh thơng mại cần
thấy rõ chức năng và thực chất của kinh doanh thơng mại để có định hớng đúng
đắn trong nội dung hoạt động của mình.
1.1.2. Nội dung hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thơng mại trong
cơ chế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc [7, 12, 39]
Nh trên đã phân tích, sự ra đời của các thơng nhân, các tổ chức chuyên làm
chức năng lu thông hàng hoá trên thị trờng là một tất yếu khách quan trong tiến
trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Những tổ chức thơng nhân đó là các đơn vị
(doanh nghiệp) kinh doanh thơng mại. V.I. Lênin đã mô tả một cách sinh động
quá trình hình thành thơng nhân từ việc chuyên môn hoá lao động trong những ng-
ời làm nghề thủ công ở Nga trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa t bản ở
Nga nh sau: Lúc đầu, do nhu cầu phải tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra, những ngời
làm nghề thủ công đã phân công một số ngời đa hàng ra thị trờng để bán, dần dần
công việc đó đợc cố định vào một số ngời. Những ngời này lập tức biến quan hệ
của họ thành quan hệ mua bán với những ngời làm nghề thủ công. Họ mở rộng
quan hệ ra một số vùng rộng lớn và trở thành những thơng nhân chuyên đảm nhận
chức năng lu thông hàng hóa [29]
Nh vậy, trong quá trình phát triển của mình, những ngời thơng nhân chuyên
nghiệp này trở thành các đơn vị kinh doanh thơng mại, tập hợp thành một hệ thống
to lớn nh hiện nay ở các nớc cũng nh ở Việt Nam chúng ta. Đó là hệ thống các tổ
chức kinh doanh thơng mại - doanh nghiệp thơng mại (DNTM).
Quá trình hình thành và phát triển hệ thống các DNTM ở Việt Nam gắn liền
với quá trình phát triển của lực lợng sản xuất xã hội và quan hệ sản xuất thiết lập
trong mỗi giai đoạn.
Doanh nghiệp thơng mại là những tổ chức kinh tế hợp pháp, hoạt động
trong lĩnh vực lu thông hàng hoá, là những đơn vị kinh tế chuyên kinh doanh để
kiếm lời thông qua hoạt động mua - bán hàng hoá dịch vụ trên thị trờng [39, tr
10]. Đặc trng cơ bản là lu chuyển hàng hoá, dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu
của sản xuất và đời sống.
Trong cơ chế thị trờng, có sự điều tiết vĩ mô của nhà nớc, để thực hiện mục
tiêu lợi nhuận và các mục tiêu khác trong kinh doanh, các DNTM Việt Nam phải
thực hiện các nội dung cơ bản sau đây:
Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trờng để lựa chọn mặt hàng, ngành
hàng, lĩnh vực kinh doanh.
Bất kỳ doanh nghiệp thơng mại nào trớc khi tiến hành hoạt động kinh doanh
cũng phải thực hiện nghiên cứu xác định nhu cầu thị trờng về các loại hàng hoá
dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của mình. Nhu cầu của thị trờng là cái quyết
định hoạt động kinh doanh của DNTM. Mỗi loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể có
những đặc điểm riêng của nó về tính chất cơ lý hoá học, hình dạng, trạng thái và
nhu cầu khác nhau về không gian, thời gian, quy mô, cơ cấu, đối tợng tiêu thụ,
mục đích tiêu thụ. Với đặc trng là mua để bán kiếm lời, do đó nếu nghiên cứu và
xác định không chính xác, cụ thể nhu cầu thị trờng thì tất yếu mua sẽ không bán
đợc hoặc không thể đạt đợc mục tiêu kiếm lời. Bán quyết định mua. Trên cơ sở
nhu cầu thị trờng, cần xem xét đánh giá khả năng đảm bảo của nguồn cung ứng.
Trong phạm vi một doanh nghiệp kinh doanh cụ thể, nguồn cung ứng có thể bao
gồm nguồn do sản xuất trong nớc (mua của các đơn vị sản xuất trong nớc hoặc có
thể tự sản xuất), mua của các đơn vị kinh doanh khác, nguồn nhập khẩu và các
nguồn khác. Cần xác định chính xác khả năng của nguồn hàng, khả năng có thể
khai thác, khả năng đặt hàng, mua hàng để có nguồn hàng đầy đủ về số lợng, tối u
về chất lợng, phù hợp với thời gian, yêu cầu của thị trờng. Có nh vậy, việc mua
mới bán đợc, nguồn hàng mới đáp ứng đợc nhu cầu của khách hàng.
Chính nhu cầu thị trờng, khả năng đáp ứng nhu cầu của nguồn hàng hoá là
cơ sở quan trọng để doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng, ngành hàng kinh doanh,
quyết định các điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện kinh doanh. Việc nghiên cứu,
xác định nhu cầu thị trờng, xác định nguồn cung ứng cần đợc tiến hành thờng
xuyên, liên tục, đặc biệt trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trờng nớc ta
hiện nay. Trong đó cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu xác định
nhu cầu của khách hàng vì khách hàng và nhu cầu của họ chính là điểm xuất phát
của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Xây dựng chiến lợc, kế hoạch kinh doanh đúng đắn.
Chiến lợc kinh doanh của DNTM là định hớng hoạt động có mục tiêu của
doanh nghiệp thơng mại cho một thời kỳ dài và hệ thống các chính sách, các điều
kiện, các biện pháp để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu đã đề ra. Trong cơ chế thị
trờng cạnh tranh gay gắt khốc liệt nh hiện nay, chiến lợc kinh doanh giúp cho
doanh nghiệp thấy rõ đợc hớng đi, bớc đi, cách đi, mục đích cần đạt, chủ động đợc
các điều kiện trong kinh doanh, thấy rõ đợc những cơ hội để khai thác, những rủi
ro để đề phòng. Điều đó đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển đợc trong
điều kiện kinh doanh có vô vàn cơ hội tìm kiếm lợi nhuận song cũng đầy cạm bẫy
rủi ro. Khi xây dựng chiến lợc kinh doanh cần quán triệt các nội dung:
+ Phải xác định đợc mục tiêu và phơng hớng kinh doanh để đảm bảo cho
doanh nghiệp phát triển vững chắc trong thời kỳ dài, phù hợp với cơ chế quản lý
của Nhà nớc.
+ Phải có các chính sách, biện pháp đồng bộ, đặc biệt quan tâm đến các
chính sách, biện pháp cơ bản quan trọng nh chính sách thị trờng, khách hàng, mặt
hàng, ngành hàng kinh doanh, vốn, nhân sự
+ Xác định trình tự thực hiện, các điều kiện để thực hiện các mục tiêu đề ra
trong từng giai đoạn phù hợp với mục tiêu chiến lợc. Việc xác định đúng đắn
chiến lợc kinh doanh của DNTM có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định đến sự
tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Trong phạm vi nền kinh tế, chiến lợc kinh
doanh của doanh nghiệp cũng ảnh hởng không nhỏ đến lợi ích quốc gia, vị thế
quốc gia trên trờng quốc tế. Có nhà kinh tế đã từng nói: xác định sai một mặt
hàng, mất một doanh nghiệp, xác định sai một doanh nghiệp, mất một ngành
Trên cơ sở chiến lợc kinh doanh đúng đắn đã xây dựng, doanh nghiệp cần
triển khai thực hiện chiến lợc bằng việc xây dựng (lập) các kế hoạch kinh doanh.
Lập kế hoạch là quá trình xác định những mục tiêu của tổ chức và phơng thức tốt
nhất để đạt mục tiêu đó trong từng thời kỳ để thống nhất và phối hợp các hoạt
động.
Lập kế hoạch kinh doanh cho biết phơng hớng hoạt động, làm giảm sự tác
động của những thay đổi điều kiện kinh doanh, tránh đợc lãng phí, d thừa, thiết lập
đợc các tiêu chuẩn thuận tiện cho công tác kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể xây dựng các kế hoạch theo thời gian,
theo quy mô, phạm vi của từng hoạt động nhng phải đảm bảo tính thống nhất, tính
hợp lý, tính khả thi, phù hợp với các mục tiêu cụ thể và mục tiêu chiến lợc của
doanh nghiệp.[23]
ở DNTM, kế hoạch kinh doanh cơ bản nhất là kế hoạch mua bán (lu
chuyển) hàng hoá. Đây là kế hoạch nền tảng cho mọi kế hoạch khác trong cùng hệ
thống kế hoạch kinh doanh - kỹ thuật - tài chính của DNTM. Cơ sở khoa học để
xây dựng chiến lợc và các kế hoạch kinh doanh của DNTM là kết quả nghiên cứu
thị trờng, là các chủ trơng chính sách của nhà nớc, của các cấp quản lý; là hệ
thống căn cứ định mức kinh tế - kỹ thuật trong kinh doanh, sự phân tích các yếu tố
môi trờng nội tại và bên ngoài doanh nghiệp.
Kinh tế thị trờng ngày càng phát triển, điều kiện hội nhập của Việt Nam
ngày càng mở rộng, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lợc, kế hoạch kinh doanh
nhạy bén, đúng đắn mới không ngừng thúc đẩy đợc hoạt động của mình, nâng cao
sức cạnh tranh và uy tín trên thị trờng, kinh doanh có lãi.
Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực đa vào kinh doanh.
Muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, DNTM phải biết huy động mọi
nguồn lực của mình, đa chúng ra hoạt động để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Các nguồn lực mà doanh nghiệp có thể huy động đợc bao gồm:
+ Vốn hữu hình nh tiền, nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, quầy hàng, các thiết
bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh
+ Vốn vô hình nh sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá kinh doanh, uy tín
của doanh nghiệp với khách hàng, bí quyết kinh doanh, sự nắm giữ các thông tin
thị trờng
+ Con ngời: Đây đợc xem là nguồn lực quan trọng nhất của doanh nghiệp.
Con ngời với tài năng và kinh nghiệm nghề nghiệp đợc đào tạo, tích luỹ, sự tận
tâm với nghề nghiệp là vốn quý nhất của doanh nghiệp.
Vì nguồn lực bao giờ cũng có giới hạn, do vậy doanh nghiệp phải tìm mọi
cách huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó. Trên cơ sở các nguồn lực
bên trong (nội lực), doanh nghiệp cần tìm ra các phơng án kết hợp tối u với các
nguồn lực bên ngoài doanh nghiệp nhằm tạo ra các cơ hội và thời cơ hấp dẫn để
hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ: mua, bán, dự trữ, bảo quản, vận
chuyển, khuyến mãi và các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng.
Hoạt động kinh doanh cơ bản của DNTM là mua hàng để bán lại hàng hoá
đó cho khách hàng để thoả mãn những nhu cầu cụ thể của họ.
Nghiệp vụ mua hàng, tạo nguồn hàng hoá là khâu nghiệp vụ đầu tiên của
quá trình kinh doanh. Mua hàng và áp dụng các hình thức tạo nguồn hàng khác
nhằm tạo ra khối lợng, cơ cấu hàng hoá phù hợp với những nhu cầu của khách
hàng một cách cụ thể về số lợng, chất lợng, thời gian và khả năng thanh toán của
họ.
Tổ chức phân phối và bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng nhất vì
thông qua nghiệp vụ này hàng hoá mới bán đợc, mới thoả mãn đợc nhu cầu của
khách hàng, mới thực hiện đợc việc chuyển hoá hình thái giá trị của sản phẩm.
Nhờ đó doanh nghiệp mới thu hồi đợc vốn kinh doanh, trang trải đợc các chi phí
và có lợi nhuận.
Thực hiện dự trữ hàng hoá là nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp tiến hành liên tục, đều đặn trong mọi điều kiện, tận dụng đợc các cơ
hội mới trong kinh doanh. Thực chất dự trữ hàng hoá nh một nguồn hàng có tính

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét