Tiền lương không phải là vấn đề chi phí trong nội bộ từng doanh nghiệp
thu nhập đối với người lao động mà còn là một vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội
mà Chính phủ của mỗi quốc gia cần phải quan tâm.
II - CÁC HÌNH THỨC TRẢ TIỀN LƯƠNG
Trong các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau của nền
kinh tế thị trường có rất nhiều loại lao động khác nhau; tính chất, vai trò của
từng loại lao động đối với mỗi quá trình sản xuất kinh doanh lại khác nhau. Vì
thế, mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn hình thức trả lương cho người lao động sao
cho hợp lý, phù hợp với đặc điểm công nghệ, phù hợp với trình độ năng lực
quản lý.
Hiện nay, việc trả lương trong các doanh nghiệp phải thực hiện theo luật
lao động và theo thông tư số : 04/2003/TT-BLĐTBXH ngày 17/2/2003 của Bộ
Lao động thương binh xã hội về việc hướng dẫn thực hiện điều chỉnh tiền lương
và phụ cấp trong các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể áp dụng 3 hình
thức trả lương như sau:
- Hình thức trả lương theo thời gian
- Hình thức trả lương theo sản phẩm
- Hình thức trả lương khoán
A. Hình thức trả lương theo thời gian:
Theo hình thức này, cơ sở để tính trả lương là thời gian làm việc và trình
độ nghiệp vụ của người lao động.
Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau, mỗi ngành nghề cụ thể có một
thang lương riêng, trong mỗi một thang lương lại tuỳ theo trình độ thành thạo
nghiệp vụ, kỷ luật, chuyên môn mà chia làm nhiều bậc lương, mỗi bậc lương có
một mức tiền lương nhất định.
Tiền lương theo thời gian có thể tính theo các đơn vị thời gian như:
tháng, tuần, ngày, giờ.
5
• Lương tháng được quy định sẵn đối với từng bậc lương trong các thang
lương, nó có nhiều nhược điểm bởi không tính được người làm việc nhiều
hay ít ngày trong tháng, do đó không có tác dụng khuyến khích tận dụng đủ
số ngày làm việc quy định. Lương tháng thường áp dụng để trả lương cho
nhân viên làm công tác quản lý hành chính, quản lý kinh tế và các nhân viên
thuộc các ngành hoạt động không có tính chất sản xuất.
• Lương tuần được trả cho người lao động căn cứ vào mức lương tháng và số
tuần thực tế trong tháng. Lương tuần áp dụng trả cho các đối tượng lao động
có thời gian lao động không ổn định mang tính chất thời vụ.
• Lương ngày trả cho người lao động căn cứ vào mức lương ngày và số ngày
làm việc thực tế trong tháng. Lương ngày thường áp dụng để trả lương cho
lao động trực tiếp hưởng lương thời gian, tính lương cho người lao động
trong những ngày hội họp, học tập hoặc làm nghĩa vụ khác và làm căn cứ để
tính trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH). Hình thức này có ưu điểm đơn giản,
dễ tính toán, phản ánh được trình độ kỹ thuật và điều kiện làm việc của
người lao động. Song, nó chưa gắn tiền lương với kết quả lao động của từng
người nên không kích thích việc tận dụng thời gian lao động, nâng cao năng
suất lao động và chất lượng sản phẩm.
• Mức lương giờ tính dựa trên cơ sở mức lương ngày, nó thường được áp
dụng để trả lương cho lao động trực tiếp trong thời gian làm việc không
hưởng theo sản phẩm. Ưu điểm của hình thức này là đã tận dụng được thời
gian lao động của công nhân nhưng nhược điểm là vẫn chưa gắn tiền lương
với kết quả lao động với từng người, theo dõi phức tạp
Thực tế cho thấy đơn vị thời gian để trả lương càng ngắn thì việc trả lương càng
gần với mức độ hao phí lao động thực tế của người lao động.
* Tiền lương Tiền lương cấp bậc Số ngày làm
việc
=
×
6
tháng chức vụ 1 ngày thực tế trong tháng
Tiền lương tháng
×
12 tháng
* Tiền lương tuần =
Số tuần làm việc theo chế độ
Tiền lương tháng
* Tiền lương ngày =
Số ngày làm việc theo chế độ
Tiền lương ngày
* Tiền lương giờ =
Số giờ làm việc theo chế độ
Hình thức trả lương này có nhược điểm là không phát huy đầy đủ nguyên
tắc phân phối theo lao động vì nó không xét đến thái độ lao động, đến cách sử
dụng thời gian lao động, sử dụng nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, chưa chú ý
đến kết quả và chất lượng công tác thực tế của người lao động.
B. Hình thức trả lương theo sản phẩm
Theo hình thức này, cơ sở để tính trả lương là số lượng và chất lượng
sản phẩm hoàn thành.
Đây là hình thức trả lương phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao
động, gắn bó chặt chẽ thù lao lao động với kết quả sản xuất, kỹ thuật, chuyên
môn, nghiệp vụ, phát huy năng lực, khuyến khích tài năng, sử dụng và phát huy
được khả năng của máy móc trang thiết bị để tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những hạn chế có thể khắc phục được như
năng suất cao nhưng chất lượng kém do làm ẩu, vi phạm quy trình, sử dụng quá
năng lực của máy móc đó là do quá coi trọng số lượng sản phẩm hoàn thành
7
và một phần cũng do các định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng quá lỏng lẻo,
không phù hợp với điều kiện và khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
Bởi vậy, trong việc trả lương theo sản phẩm, vấn đề quan trọng là phải
xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật để làm cơ sở cho việc xây dựng đơn giá
tiền lương đối với từng loại sản phẩm, từng công việc một cách hợp lý .
Tuỳ thuộc vào điều kiện và tình hình cụ thể ở từng doanh nghiệp, hình
thức trả lương theo sản phẩm được vận dụng theo các phương pháp cụ thể:
- Trả lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế
- Trả lương theo sản phẩm gián tiếp
- Trả lương theo sản phẩm có thưởng - phạt
- Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến
1. Tiền lương trả theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế
Với cách này, tiền lương phải trả cho người lao động được trích trực tiếp
theo số lượng sản phẩm hoàn thành đúng quy cách, phẩm chất và đơn giá tiền
lương sản phẩm đã quy định không chịu một sự hạn chế nào.
Đơn giá tiền lương trả cho một đơn vị sản phẩm hoàn thành được xây
dựng căn cứ vào mức lương cấp bậc công việc và định mức thời gian hoặc định
mức sản lượng cho công việc đó. Ngoài ra , nếu có phụ cấp khu vực thì đơn giá
tiền lương còn có thêm cả tỷ lệ phụ cấp khu vực.
hoặc
Hình thức trả lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế có ưu điểm
đơn giản, dễ hiểu, quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, lương trả cho
công nhân càng cao khi sản xuất ra càng nhiều sản phẩm, do đó khuyến khích
8
được người công nhân nâng cao năng suất lao động. Đây là hình thức phổ biến
được các doanh nghiệp sử dụng để tính lương phải trả cho lao động trực
tiếp.Tuy nhiên cách trả lương này cũng có nhược điểm nâng cao lợi ích cá nhân,
không khuyến khích người lao động quan tâm đến lợi ích chung của tập thể.
2. Tiền lương trả theo sản phẩm luỹ tiến
Theo hình thức này, ngoài tiền lương theo sản phẩm trực tiếp còn căn cứ
vào mức độ hoàn thành tỷ lệ luỹ tiến. Mức luỹ tiến này còn có thể quy định
bằng hoặc cao hơn định mức sản lượng. Những sản phẩm dưới mức khởi điểm
luỹ tiến được tính theo đơn giá tiền lương chung cố định, những sản phẩm vượt
mức càng cao thì suất luỹ tiến càng lớn.
Lương trả theo sản phẩm luỹ tiến có tác dụng kích thích mạnh mẽ việc
tăng nhanh năng suất lao động, nhưng thường dẫn đến tốc độ tăng tiền lương
cao hơn tăng năng suất lao động và làm tăng khoản mục chi phí nhân công trong
giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy, hình thức này được sử dụng như
một giải pháp tạm thời như áp dụng trả lương ở những khâu quan trọng cần thiết
để đẩy nhanh tốc độ sản xuất đảm bảo cho sản xuất cân đối, đồng bộ hoặc có thể
áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp phải thực hiện gấp một đơn đặt hàng
nào đó. Trường hợp không cần thiết thì doanh nghiệp không nên sử dụng hình
thức này.
3. Tiền lương trả theo sản phẩm gián tiếp
Tiền lương của người được trả lương theo sản phẩm gián tiếp được xác
định bằng cách nhân số lượng sản phẩm thực tế của người lao động trực tiếp
được người đó phục vụ với đơn giá lương cấp bậc của họ (hoặc mức lương cấp
bậc nhân với tỷ lệ % hoàn thành định mức sản lượng bình quân của người lao
động trực tiếp).
Tiền lương trả theo Số lượng sản phẩm Đơn giá lương
=
×
9
sản phẩm trực tiếp của công nhân trực tiếp gián tiếp
Số lượng sản phẩm của
Mức lương cấp bậc công nhân trực tiếp
=
×
×
100
của lao động gián tiếp Sản lượng định mức
Như vậy:
Mức lương cấp bậc của lao động gián tiếp
Đơn giá tiền lương gián tiếp =
Sản lượng định mức
Hình thức trả lương này áp dụng để trả lương cho lao động gián tiếp ở
các bộ phận sản xuất như công nghệ điều chỉnh máy, sửa chữa thiết bị, bảo
dưỡng máy móc, lao động làm nhiệm vụ vận chuyển vật liệu, thành phẩm
Trả lương theo thành phẩm gián tiếp khuyến khích những người lao
động gián tiếp phối hợp với lao động trực tiếp để nâng cao năng suất lao động,
cùng quan tâm tới kết quả chung. Tuy nhiên, hình thức này không đánh giá
được đúng kết quả lao động của người lao động gián tiếp.
4. Tiền lương trả theo sản phẩm có thưởng, phạt
Để khuyến khích người công nhân có ý thức trách nhiệm trong sản xuất,
công tác, doanh nghiệp có chế độ tiền thưởng khi người công nhân đạt được
những chỉ tiêu mà doanh nghiệp đã quy định như thưởng về chất lượng sản
phẩm tốt, thưởng về tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư.
10
Trong trường hợp người lao động làm ra sản phẩm hỏng, lãng phí vật tư,
không đảm bảo ngày công quy định thì có thể phải chịu mức tiền phạt trừ vào
mức tiền lương theo sản phẩm mà họ được hưởng.
Thực chất của hình thức trả lương này là sự kết hợp giữa tiền lương
trích theo sản phẩm với chế độ tiền thưởng, phạt mà doanh nghiệp quy định.
Hình thức này đánh vào lợi ích người lao động, làm tốt được thưởng,
làm ẩu phải chịu mức phạt tương ứng, do đó, tạo cho người công nhân có ý thức
công việc, hăng say lao động. Nhưng hình thức này nếu làm tuỳ tiện sẽ dẫn đến
việc trả thưởng bừa bãi, không đúng người đúng việc, gây tâm lý bất bình cho
người lao động.
C. Hình thức trả lương khóan
Theo hình thức này, công nhân được giao việc và tự chịu trách nhiệm với
công việc đó cho tới khi hoàn thành.
Có 2 phương pháp khoán: khoán công việc và khoán quỹ lương.
- Kho án công việc:
Theo hình thức này, doanh nghiệp quy định mức tiền lương cho mỗi
công việc hoặc khối lượng sản phẩm hoàn thành. Người lao động căn cứ vào
mức lương này có thể tính được tiền lương của mình thông qua khối lượng công
việc mình đã hoàn thành.
Mức lương quy định Khối lượng công
việc
Tiền lương khoán công việc =
×
cho từng công việc đã hoàn thành
Cách trả lương này áp dụng cho những công việc lao động đơn giản, có
tính chất đột xuất như bốc dỡ hàng, sửa chữa nhà cửa
- Kho án quỹ lương
11
Theo hình thức này, người lao động biết trước số tiền lương mà họ sẽ
nhận sau khi hoàn thành công việc và thời gian hoàn thành công việc được giao.
Căn cứ vào khối lượng từng công việc hoặc khối lượng sản phẩm và thời gian
cần thiết để hoàn thành mà doanh nghiệp tiến hành khoán quỹ lương.
Trả lương theo cách khoán quỹ lương áp dụng cho những công việc
không thể định mức cho từng bộ phận công việc hoặc những công việc mà xét ra
giao khoán từng công việc chi tiết thì không có lợi về mặt kinh tế, thường là những
công việc cần hoàn thành đúng thời hạn.
Trả lương theo cách này tạo cho người lao động có sự chủ động trong
việc sắp xếp tiến hành công việc của mình từ đó tranh thủ thời gian hoàn thành
công việc được giao. Còn đối với người giao khoán thì yên tâm về thời gian
hoàn thành.
Nhược điểm của phương pháp trả lương này là dễ gây ra hiện tượng làm
bừa, làm ẩu, không đảm bảo chất lượng do muốn đảm bảo thời gian hoàn thành.
Vì vậy, muốn áp dụng phương pháp này thì công tác kiểm nghiệm chất lượng
sản phẩm trước khi giao nhận phải được coi trọng, thực hiện chặt chẽ.
Nhìn chung, ở các doanh nghiệp do tồn tại trong nền kinh tế thị trường,
đặt lợi nhuận lên mục tiêu hàng đầu nên việc tiết kiệm được chi phí lương là
một nhiệm vụ quan trọng, trong đó cách thức trả lương được lựa chọn sau khi
nghiên cứu thực tế các loại công việc trong doanh nghiệp là biện pháp cơ bản,
có hiệu quả cao để tiết kiệm khoản chi phí này. Thông thường ở một doanh
nghiệp thì các phần việc phát sinh đa dạng với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Vì
vậy, các hình thức trả lương được các doanh nghiệp áp dụng linh hoạt, phù hợp
trong mỗi trường hợp, hoàn cảnh cụ thể để có được tính kinh tế cao nhất.
12
III - LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ,
KINH PHÍ CÔNG ĐOÀN.
1. Bảo hiểm xã hội (BHXH):
Trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có
đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện để sinh sống bình thường. Trái lại, có rất
nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người
ta bị giảm mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác như ốm đau, tai nạn,
tuổi già mất sức lao động nhưng những nhu cầu cần thiết của cuộc sống không
những mất đi hay giảm đi mà thậm chí còn tăng lên, xuất hiện thêm những nhu
cầu mới (khi ốm đau cần chữa bệnh ). Vì vậy, con người và xã hội loài người
muốn tồn tại, vượt qua được những lúc khó khăn ấy thì phải tìm ra và thực tế đã
tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau.
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, khó khăn bất lợi của mỗi người được
cả cộng đồng san sẻ gánh chịu. Còn ở xã hội phong kiến quan lại, những lúc gặp
khó khăn thì cậy nhờ ở Vua, dân cư gặp khó khăn thì trông cậy vào sự đùm bọc,
hảo tâm của họ hàng làng xã. Như vậy là tất cả đều ở thế bị động, thụ động
trông chờ vào sự hảo tâm của phía giúp đỡ mà hoàn toàn không được chắc chắn.
Tiến bộ hơn, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển xuất
hiện mối quan hệ chủ - thợ. Khi hai bên cam kết về lao động, điều kiện về sự
đảm bảo một phần thu nhập để trang trải những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi
ốm đau, tai nạn cho người lao động đã được người lao động quan tâm đến.
Tuy nhiên, mới đầu do việc đảm bảo này chỉ liên quan giữa hai bên chủ- thợ mà
chủ thì rõ ràng không muốn chi ra, thợ thì luôn đòi hỏi, vì vậy, tranh chấp giữa
họ luôn xảy ra.
điều kiện khách quan đó làm xuất hiện một bên thứ ba, là nhân vật đóng
vai trò trung gian để giúp thực hiện những cam kết giữa chủ- thợ bằng những
13
hoạt động thích hợp của nó. Nhân vật thứ ba có đủ khả năng và sự tín nhiệm để
làm bên trung gian, đó là Nhà nước.
Nhà nước quy định hàng tháng giới chủ phải trích ra một khoản tiền nho
nhỏ được tính toán chặt chẽ trên cơ sở xác xuất những biến cố của tập hợp
những người lao động làm thuê để giao cho bên thứ ba, khi có biến cố thì bên
thứ ba chi trả, không phụ thuộc vào giới chủ, số tiền không phải dùng đến (chưa
phải chi trả) sẽ tồn tích lâu ngày thành quỹ.
Việc Nhà nước can thiệp vào với vai trò là bên thứ ba, một mặt làm
tăng vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế trong các mối quan hệ xã hội, mặt
khác làm tăng chi cho ngân sách Nhà nước.
Nhà nước bằng những cơ sở lý luận khoa học đã buộc giới chủ đóng góp
vào quỹ BHXH với một khoản tiền phù hợp đủ cho người lao động, đồng thời
cũng yêu cầu giới thợ đóng góp một phần tiền lương của mình vào quỹ để đảm
bảo cho cuộc sống của chính mình.
Nhờ các hoạt động của Nhà nước này mà mâu thuẫn giữa chủ- thợ được
giải quyết, cả hai bên đều hài lòng, cảm thấy mình có lợi và được bảo vệ.
Như vậy, ta có được khái niệm về BHXH như sau:
“BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động
hoặc mất việc làm bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung
do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động, nhằm đảm bảo
an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn
xã hội”.
Ở Việt Nam hiện nay, mọi người lao động có tham gia đóng BHXH đều
có quyền hưởng BHXH. Đóng BHXH là tự nguyện hay bắt buộc tuỳ thuộc vào
loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để đảm bảo cho người lao động được
hưởng các chế độ BHXH thích hợp. Phương thức đóng BHXH dựa trên cơ sở
mức tiền lương quy định để đóng BHXH đối với mỗi người lao động.
• Quỹ BHXH
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét