Luận văn tốt nghiệp
Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD
ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD ở nước ta
Trong quá trình thực hiện, mặc dùđã có nhiều cố gắng, song do kiến thức
còn hạn chế, nhận thức chưa đầy đủ, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và những khó
khăn khách quan về tài liệu, số liệu và các tài liệu tham khảo, chuyên đề chắc
chắn không thể tránh khỏi sai lầm, thiếu sót. Vì vậy, em mong được thầy cô và
các bạn phê bình, bổ sung vàđóng góp ý kiến để chuyên đề hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của các cán bộ Cục tài chính doanh
nghiệp, nhất là tập thể cán bộ Ban ngoài quốc doanh, những người giàu kinh
nghiệm thực tế trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Đặc biệt, em xin cám ơn
thầy giáo Vũ Duy Hào người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này.
Chương I:
NHỮNGVẤNĐỀCƠBẢNVỀCƠCHẾQUẢNLÝTÀICHÍNHĐỐIVỚIDOA
NHNGHIỆPNGOÀIQUỐCDOANH.
1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD)
1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD:
Đề cập đến kinh tế ngoài quốc doanh, Nghị quyết Đại hội trung ương
Đảng lần thứ V đã công nhận, trong hơn 10 năm thuộc thời kìđổi mới, khu vực
kinh tế tư nhân (kinh tế NQD) bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc sở
hữu cá nhân, kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới các loại hình khác nhau như
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), , kinh tế hộ gia đình,
đã có những bước phát triển nhanh, mạnh và rộng khắp trên cả nước. Kinh tế
NQD đãđóng góp to lớn vào sự phát triển chung của đất nước, thông qua việc
huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc
làm cho người lao động, cải thiện mức sống của người dân, đóng góp vào ngân
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
5
Luận văn tốt nghiệp
sách nhà nước, góp phần đảm bảo sựổn định chính trị xã hội trong nước và
nhiều mặt tích cực khác.
Như vậy rõ ràng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là
một chiến lược quan trọng lâu dài, phù hợp với qui luật vận động của nền kinh
tế và nằm trong tổng thể các chiến lược chung của đất nước trong thời kìđổi
mới. Nhưng vấn đề chính chúng ta cần thảo luận trong phần này chính là khái
niệm về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp NQD xét dưới giác độ sở hữu bao gồm tất cả các đơn vị
hay tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của một người hay một nhóm người. Quyền sở
hữu này được xác định dựa trên quá trình huy động hình thành nên nguồn vốn
hoạt động cho đơn vị kinh tếđó vàđược pháp luật thừa nhận. Điều này khác
cơbản với các doanh nghiệp quốc doanh, hay doanh nghiệp nhà nước (DNNN),
khi mà nguồn vốn hình thành nên các DNNN được ngân sách nhà nước cấp,
nghĩa là từ sựđóng góp của toàn dân(nguồn thu từ thuế). Tuy nhiên, DNNQD
không bao gồm tất cả các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước. Trong
nền kinh tế mở, các quốc gia có sự thông thương nhất định, các doanh nghiệp
nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh được thành lập, nhưng rõ ràng là không
nên xếp chúng vào doanh nghiệp NQD. Thứ nhất, vì chúng không có tính đồng
nhất về mặt sở hữu, một doanh nghiệp liên doanh có thể là sự liên doanh giữa
hai công dân thuộc hai nước khác nhau, liên doanh giữa hai tổ chức hay liên
doanh giữa hai chính phủ, còn doanh nghiệp nước ngoài thì càng không thể
khẳng định nó thuộc sở hữu nhà nước hay tư nhân. Thứ hai, tính chất hoạt động
và các ảnh hưởng của doanh nghiệp nước ngoài khác so với các doanh nghiệp
trong nước, chúng vận hành theo một bộ luật riêng thường là luật đầu tư nước
ngoài vàảnh hưởng lên một số khía cạnh đặc thù trong nền kinh tế như cán cân
thanh toán, dự trữ ngoại hối, tài trợ xuất nhập khẩu v.v Vì vậy, ởđây chúng ta
không xếp các doanh nghiệp nước ngoài như một bộ phận của khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh.
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
6
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy, DNNQD ở nước ta hiện nay chính là các doanh nghiệp hoạt
động theo luật doanh nghiệp đó là các đơn vị kinh tế tồn tại dưới các hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp
danh và doanh nghiệp tư nhân (DNTN), do một hay nhiều người đứng ra làm
chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình (hữu hạn hay vô hạn) về mọi
hoạt động của doanh nghiệp. Tất nhiên cũng phải kểđến các hộ kinh doanh cá
thể với mức vốn pháp định thấp hơn vốn pháp định của doanh nghiệp tư nhân.
Đây là loại hình kinh tế hộ gia đình kinh doanh trong một số ngành nghề như
nông nghiệp, thủ công, dịch vụ và buôn bán nhỏ. Nhìn chung, bộ phận chính,
quan trọng nhất trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là các công ty
bao gồm Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và doanh nghiệp
tư nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn:
- Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: là doanh nghiệp trong đó
thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp (trách
nhiệm hữu hạn). Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân số lượng thành viên
không quá 50 và không được quyền phát hành cổ phiếu.
- Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ
sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn của doanh nghiệp và cũng không
được quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần
- Doanh nghiệp có vốn điều lệđược chia thành cổ phần, số lượng cổđông
tối thiểu là 3 và chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong
phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành
chứng khoán ra công chúng.
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
7
Luận văn tốt nghiệp
Công ty hợp danh
- Là loại doanh nghiệp cóít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành
viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn, thành viên hợp danh phải là cá
nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của công
ty (trách nhiệm vô hạn). Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trên lượng
vốn góp của mình vào doanh nghiệp. Công ty hợp danh không được phát hành
chứng khoán.
Doanh nghiệp tư nhân
- Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, khu vực kinh tế NQD hay khu vực kinh tế tư nhân còn có
thểđược phân chia theo hiến pháp bao gồm các hình thức kinh tế sau:
- Kinh tế cá thể: được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay
một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê.
- Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý
vàđiều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử
dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao
động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty cổ phần.
- Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật
Doanh nghiệp.
Trên đây là một số cách phân loại khác nhau về các bộ phận cấu thành
nên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, sở dĩ có những sự phân chia hơi khác
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
8
Luận văn tốt nghiệp
nhau như vậy là vì mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức, một cách tiếp cận
khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, chúng ta có thể hiểu doanh nghiệp NQD là
các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước, và tất nhiên là không phải các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (nhưđã trình bày ở trên). Đây là một bộ
phận không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, một phần trong thời kì quáđộ
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là
nhiệm vụ quan trọng đểđi đến thắng lợi cuối cùng trong công cuộc đổi mới,
công nghiệp hoá hiện đại hoáđất nước.
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế:
Kinh tế tư nhân có thể kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực trong nền
kinh tế, tất nhiên trừ một sốít lĩnh vực mà nhà nước giữđộc quyền để kiểm soát
tình hình an ninh quốc phòng vàổn định chính trị trong nước.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã vàđang tiếp tục có những
đóng góp tích cực và vô cùng quan trọng cần thiết trong công cuộc phát triển
đất nước.
- Góp phần quan trọng để tạo ra thành tựu tăng trưởng kinh tế chung, đổi
mới bộ mặt kinh tế xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ cho xã hội.
- Là lĩnh vực chính thu hút lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho
người lao động.
- Giải phóng sức lao động và huy động tối đa các nguồn lực trong dân cư
vào công cuộc phát triển kinh tế.
- Tạo môi trường cạnh tranh, nâng cao tính năng động hiệu quả cho nền
kinh tế.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Mặc dù có những vai trò tích cực và quan trọng nhưđã kể trên, nhưng
trong quá khứ và ngay cả hiện tại vẫn có những quan điểm không thống nhất về
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
9
Luận văn tốt nghiệp
những đóng góp của khu vực kinh tế NQD. Nhiều quan điểm cho rằng kinh tế
tư nhân gắn liền với bóc lột, là nguyên nhân của sự phân hoá giàu nghèo, vì vậy
phải cải tạo, thu hẹp và từng bước xoá bỏ. Tuy nhiên, một nhà nước xã hội chủ
nghĩa với quyền điều hành nền kinh tế của mình có thể có những chính sách
làm hạn chế mức độ chênh lệch về thu nhập cũng như sự bóc lột sức lao động.
Cần phải quán triệt khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế tư nhân trong chủ nghĩa tư bản khác nhau về
căn bản. Vì thế sẽ là không thoảđáng nếu cứ xem các doanh nghiệp tư nhân
hàng ngày hàng giờđẻ ra chủ nghĩa tư bản và làđối tượng phải cải tạo của
CNXH. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư nhân trong nền kinh tếđịnh hướng
xã hội chủ nghĩa sẽđóng góp quan trọng lâu dài vào sự nghiệp phát triển nền
kinh tế theo cơ chế thị trường. Vấn đề chính yếu làđể phát huy được hết tính
tích cực của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển chung của đất
nước, nhà nước phải có những định hướng đúng đắn, nhất quán và những chính
sách, đường lối chỉđạo phù hợp mà cơ chế quản lý tài chính, vấn đềđược nghiên
cứu ởđây chính là một bộ phận không thể thiếu.
1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD:
a) Đặc điểm :
- Thứ nhất, vốn trong các doanh nghiệp tư nhân xét về quyền sở hữu đều
là vốn tự có hoặc đi vay của cá nhân hoặc nhóm cá nhân bất kể doanh nghiệp
tư nhân đó hoạt động dưới hình thức nào Công ty TNHH, Công ty hợp danh,
Công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân. Tại các nước xã hội chủ nghĩa nhưở
nước ta, nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân đều có khả năng tài chính hạn
hẹp, chưa phát huy hết thế mạnh, hoạt động mang tính nhỏ lẻ, sự vụ, thiếu
những định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài ổn định, kinh doanh
chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ, hàng thủ
công. Sau đó là trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu, đây là một trong những thiệt
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
10
Luận văn tốt nghiệp
thòi của doanh nghiệp tư nhân so với doanh nghiệp nhà nước. Trong khi doanh
nghiệp nhà nước được cung cấp thiết bị công nghệ tiên tiến, do nguồn vốn lớn
từ ngân sách và tài trợ nước ngoài thì các doanh nghiệp tư nhân sử dụng công
nghệ lạc hậu hơn, có một số máy móc đã quá cũ kĩ, hết thời gian sử dụng, thậm
chí có một số là do doanh nghiệp nhà nước thanh lý. Tiếp theo phải nói đến
trình độ quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập trong khu vực kinh tế tư nhân. Các
doanh nghiệp tư nhân thường có kiến thức và khả năng kinh doanh rất hạn chế,
những hiểu biết về khoa học kinh tế hay nghiệp vụ kinh doanh rất sơ sài, bên
cạnh đó là nhận thức và kiến thức về pháp luật, thông tin thị trường ngay trong
nước chứ chưa nói đến quốc tế còn nhiều thiếu sót và yếu kém. Tất nhiên, tình
trạng trên cũng một phần là do các nguyên nhân khách quan mang lại, đó là
chiến tranh, thời kỳ bị bao vây cấm vận, thời kì thực hiện nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp và một sốđiều kiện kinh tế xã hội khác. Và cũng
không phải toàn bộ các doanh nghiệp tư nhân đều lâm vào tình cảnh trên, không
thiếu những doanh nghiệp tư nhân làm ăn hiệu quả cao, vươn lên là những điển
hình tiêu biểu là tấm gương để các doanh nghiệp khác noi theo phấn đấu. Trình
độ phát triển yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân như trên chính là một giai
đoạn mà nhiều nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đang phát triển như nước ta vẫn
thường trải qua. Và việc thiết lập một cơ chế tài chính hoàn thiện hơn cho khu
vực kinh tế này chính là một phương cách để rút ngắn thời gian, đẩy nhanh quá
trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
- Đặc điểm thứ hai cần nhắc đến ởđây là do doanh nghiệp tư nhân là
thuộc sở hữu tư nhân, không phải sở hữu nhà nước, quyền sở hữu này được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Cá nhân hay nhóm cá nhân được quyền tổ chức
hoạt động cho doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình, và thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ, trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp theo những gì pháp luật quy
định. Cũng chính vì thế mà doanh nghiệp tư nhân không chịu sựđiều tiết một
cách trực tiếp theo cơ chế mệnh lệnh hành chính của nhà nước. Nhà nước không
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
11
Luận văn tốt nghiệp
thể can thiệp quá trực tiếp hay thô bạo đến quá trình vận hành và tổ chức hoạt
động của các DNNQD. Điều này không giống với các DNNN, và càng khác
biệt rõ rệt với những gì mà cơ chế cũđã thể hiện. Nhưng như vậy không có
nghĩa rằng nhà nước không có vai trò gìđối với sự phát triển của DNNQD.
Ngược lại, nhà nước ảnh hưởng sâu xắc đến sự phát triển của các DNNQD trên
mọi phương diện thông qua các chính sách, định hướng vàđường lối chỉđạo,
thông qua hệ thống pháp luật mà cơ chế quản lý tài chính cũng là một bộ phận
trong đó. Đây cũng chính làđặc điểm cần hết sức lưu ý khi nghiên cứu để thiết
lập một cơ chế quản lý tài chính DNNQD
b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai:
Xét về mặt định lượng, cơ cấu nền kinh tế theo các khu vực kinh tếđang
thay đổi và chắc chắn sẽ còn thay đổi mạnh.
Số liệu của Tổng cục thống kê về các "thành phần kinh tế" (không tính
lĩnh vực nông nghiệp) cho thấy tình hình như sau:
Các khu vực sở hữu
Đơn vị 1992 1994 1995 1996
Số cơ sở Cơ sở 1514615 1558627 2078125 224558
DNNN " 7060 6264 5873 5790
DN tập thể " 3231 2275 1867 1760
DN có vốn đầu
tư nước ngoài
" 515 1054 1399 1648
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
12
Luận văn tốt nghiệp
DNNQD " 5158 15893 18727 21360
Cá thể 1000
cơ sở
1498,6 1533,1 2050,2 2215
Lao động
1000
người
4706,5 5453,4 6368,5 6903,2
DNNN % 38,7 30,3 28,3 26,7
DN tập thể % 3,0 2,5 1,6 1,4
DN có vốn đầu
tư nước ngoài
% 1,1 1,8 2,3 3,0
DNNQD
(cả Cá thể)
% 57,2 65,4 67,8 68,8
Nguồn: Tổng cục thống kê:"Báo cáo phân tích thực trạng của thành phần kinh tế tư bản nhà nước và
tư bản tư nhân sau 10 năm đổi mới", tháng 6-1997
Theo các số liệu trên, năm 1996 so với khu vực nhà nước thì khu vực tư
nhân mới là nơi chủ yếu thu hút lao động xã hội Theo các số liệu mới nhất cho
thấy trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 1998 (tính theo giá hiện
hành), kinh tế nhà nước chiếm 40%, kinh tế tư nhân chiếm 38%, khu vực sở
hữu hỗn hợp chiếm 22%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần
10%, kinh tế tập thể và liên doanh trong nước chiếm 12%. Thêm nữa, tốc độ
tăng trưởng trong mấy năm gần đây của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn của
khu vực kinh tế nhà nước, nhưng thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện tại, do phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, trang thiết bị
giản đơn, phần nhiều là lao động thủ công, nên khu vực kinh tế tư nhân có năng
suất lao động thấp. Trong tương lai, nếu được khuyến khích phát triển đúng
mức, khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ có năng suất lao động cao vàđủ sức
cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Nếu tính rằng năng suất lao
động của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước xấp xỉ như nhau, thì với
cơ cấu lao động như hiện tại (20% trong khu vực kinh tế nhà nước, còn lại 80%
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
13
Luận văn tốt nghiệp
trong khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp), cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân
tương ứng là 20% khu vực kinh tế nhà nước và 80% khu vực kinh tế tư nhân và
hỗn hợp. Tất nhiên những giảđịnh hay con số nêu trên là không hoàn toàn hợp
lý, nhưng đó cũng là những cơ sở nhất định để khẳng định vai trò vị trí ngày
càng quan trọng cũng như những triển vọng phát triển ngày một lớn của khu
vực kinh tế tư nhân.
1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD:
1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính:
Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hiểu một cách chung nhất là tổng
thể các hình thức và phương pháp tác động lên hoạt động tài chính của doanh
nghiệp, nhờđó mọi nguồn lực của doanh nghiệp (Vốn, lao động, tài nguyên)
được kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành sức mạnh giúp cho doanh nghiệp phát
triển tốt nhất, thực hiện được các mục tiêu của riêng doanh nghiệp cũng như
mang lại lợi ích chung và thực hiện các mục tiêu chung của xã hội.
Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế trong đó có sự vận động hoặc sự
biểu hiện của tiền tệ thông qua các quan hệ tiền tệ. Cốt lõi của các mối quan
hệđó là những quan hệ về giá cảđược biểu hiện dưới các sắc thái khác nhau.
Hình thức biểu hiện của các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp là hết sức
đa dạng và linh động, phụ thuộc nhiều yếu tố. Cũng chính vì thế, cơ chế quản lý
tài chính doanh nghiệp nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ cũng bao hàm rất nhiều
thành tố. Tât cả những vấn đề như : Pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và
phương pháp quản lý vận hành doanh nghiệp đều nằm trong một khái niệm đó
là Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, ởđây, chúng ta có thể tách
cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp thành hai phần cơ bản, dựa trên hai giác
độ tiếp cận khác nhau đối với việc quản lý tài chính doanh nghiệp đó là giác độ
quản lý nhà nước và giác độ quản lý trong doanh nghiệp.
Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ở Việt Nam
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét