hàng hoá đó sẽ khó có cơ hội trở lại. Vì vậy sự xâm nhập của các nhà xuất khẩu đơn lẻ
thờng không mấy khi đe doạ đợc sự hiện diện TM của ngời đến trớc.
Đối với những đồ dùng cá nhân nh quần áo, may mặc và giày dép nói chung
ngời Mỹ thích sự giản tiện nhng hiện đại, hợp mốt và với yếu tố khác biệt, độc đáo thì
càng đợc họ a thích và mua nhiều.
Hoa kỳ không có các lề ớc và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc nh ở các n-
ớc khác. Các nhóm ngời khác nhau vẫn sống theo văn hoá tôn giáo của mình và theo
thời gian hoà trộn, ảnh hởng lẫn nhau tạo sự khác biệt trong thói quen tiêu dùng ở Hoa
kỳ so với ngời tiêu dùng ở các nớc Châu âu. Cùng một số đồ vật nhng thời gian sử
dụng của họ có thể chỉ bằng một nửa thời gian sử dụng của ngời tiêu dùng các nớc
khác.
Với sự thay đổi luôn nh vậy giá cả lại trở nên có vai trò rất quan trọng. Điều này giải
thích tại sao hàng hoá tiêu dùng từ một số nớc đang phát triển chất lợng kém hơn nhng
vẫn có chỗ đứng ở Hoa kỳ vì giá bán thực sự cạnh tranh (trong khi điều này khó xảy ra
ở Châu âu ).
Nói tóm lại, phân phối, giá cả và chất lợng là những yếu tố u tiên đặc biệt trong
thứ tự cân nhắc quyết định mua hàng của ngời dân Hoa kỳ. Địa lý rộng lớn, phong
cảnh đa dạng cũng tạo cho ngời dân Hoa kỳ một thói quen ham du lịch, a khám phá
trong và ngoài nớc. Toàn bộ các hàng hoá tiêu dùng liên quan đến các chuyến du lịch
bằng xe hơi đều có một thị trờng hết sức rộng lớn. Các đồ dùng liên quan đến thể thao
bán rất chạy với đủ dải thị trờng từ hàng rất đắt cho giới thu nhập cao hay hàng bán rẻ
cho dân nghèo.
Các phân tích cụ thể cho thấy thị hiếu của ngời Hoa kỳ rất đa dạng do nhiều nền văn
hoá khác nhau cùng tồn tại, xác định rõ phân đoạn thị trờng mình sẽ thâm nhập để
xuất khẩu là chìa khoá đi đến thành công.
1.2 Đặc điểm và vài nét khác biệt của thị tr ờng Hoa kỳ .
5
Nh phần trên đã trình bày, Mỹ là một thị trờng khổng lồ với sức mua lớn, nhu
cầu đa dạng. Đây là một thị trờng xuất khẩu đầy tiềm năng đối với toàn bộ các nớc
trên thế giới, trong đó có Việt nam.
Tuy nhiên, để thành công, nhà xuất khẩu phải nắm đợc một điểm hết sức cơ bản là hệ
thống chính sách luật lệ và thủ tục của chính quyền liên bang liên quan đến tiếp cận
thị trờng.
ở Mỹ có nhiều quy định chặt chẽ và chi tiết trong buôn bán: các quy định về kỹ
thuật, chất lợng Vì thế khi ch a nắm rõ hệ thống các quy định, luật lệ này các nhà
xuất khẩu thờng thấy rất khó làm ăn ở thị trờng này.
Tại thị trờng Mỹ, mậu dịch đợc thực hiện tự do không đòi hỏi giấy phép. Hàng
hoá nhập khẩu của Mỹ chỉ cần theo đúng quy định: doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá
làm thủ tục đăng ký và nộp thuế. Chỉ có vài chủng loại hàng hoá phải có giấy phép
nhập khẩu đặc biệt nh vũ khí, chất phóng xạ
Luật pháp Mỹ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải đợc đăng ký tại cục hải
quan Mỹ. Dấu hiệu nớc sản xuất bắt buộc phải có đối với tất cả hàng hoá nhập khẩu
vào Mỹ. Dấu hiệu này phải đợc viết bằng tiếng Anh và rõ ràng. Có thể ghi MADE
IN ; ASSEMBLE IN ; hoặc PRODUCT OF . Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc
sao chép, bắt chớc một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc một
công ty nớc ngoài đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng
ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho cục hải quan Mỹ và đợc lu giữ theo quy định.
Hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả hoặc sao chép các thơng hiệu đã đăng ký
mà không đợc phép của ngời có bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu.
Tiêu chuẩn thơng phẩm đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ đợc quy định rất chi tiết
và rõ ràng đối với từng nhóm hàng. Ví dụ, theo quy chế của Tổ chức nông nghiệp và
nông sản Mỹ thì nông sản. thực phẩm, tân dợc phải đ ợc kiểm định, có dấu, có ghi
thời hạn sử dụng, một số loại trái cây phải bảo đảm kích cỡ; một số mặt hàng điện tử,
dân dụng phải đảm bảo tiêu chuẩn tiết kiệm điện năng; đồ chơi trẻ em phải an toàn
Trên bao bì của sản phẩm phải ghi rõ quy cách, hớng dẫn sử dụng và cảnh báo, chẳng
6
hạn lời cảnh báo ghi: nếu không tuân thủ những chỉ dẫn này thì ngời sản xuất hoàn
toàn không chịu trách nhiệm.
Hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ phải qua hải quan làm thủ tục . Nguyên tắc chung
là khi hàng đến thì các đại lý nhận hàng và đa vào kho hải quan, sau đó đại lý thông
báo cho chủ hàng đến làm thủ tục theo các bớc quy định ( xuất trình chứng từ, kiểm
tra và hoàn thành thủ tục). Các nhà xuất khẩu nớc ngoài khi muốn làm thủ tục hải
quan để xuất khẩu vào Mỹ có thể thông qua ngời môi giới hoặc các công ty vận tải.
Thuế suất có sự khác biệt rất lớn giữa những nớc đợc hởng quy chế TM bình thờng
(NTR) với những nớc không đợc hởng (Non NTR), có hàng hoá có thuế, có hàng
không thuế nhng nhìn chung thuế suất ở Mỹ thấp hơn so với nhiều nớc khác.
Một điều đáng chú ý là ở Mỹ có luật chống bán phá giá và thuế đối kháng. Nếu
hàng hoá bán vào Mỹ thấp hơn giá quốc tế hoặc thấp hơn giá thành thì ngời sản xuất ở
Mỹ có thể kiện ra toà, và nh vậy nớc bị kiện sẽ phải chịu thuế cao không phải chỉ đối
với chính hàng hoá bán phá giá mà còn đối với toàn bộ hàng hoá khác của nớc đó bán
vào Mỹ.
Hoặc hàng hoá nớc ngoài nhập vào thị trờng Mỹ mà đợc chính phủ nớc xuất khẩu trợ
cấp sẽ bị đánh thuế đối kháng làm triệt tiêu khoản trợ cấp đó.
Hàng hoá bán tại Mỹ thờng phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng. Số lợng và
chất lợng của dịch vụ này là điểm mấu chốt cho sự tín nhiệm đối với ngời bán hàng.
Nếu một doanh nghiệp bị thua trong một vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm thì toàn bộ
tài sản của doanh nghiệp đó ở Mỹ sẽ bị tịch biên và đem bán theo phán quyết, thậm
chí những tín dụng th (L/C) đợc mở cho các nhà xuất khẩu khác không liên quan đến
vụ kiện ở nớc thứ ba cũng sẽ bị tịch thu. Chỉ khi nào giải quyết xong vụ kiện đó thì
mới có thể trở lại kinh doanh tại thị trờng Mỹ.
Đi đôi với những luật lệ và nguyên tắc về nhập khẩu hàng hoá, ở Mỹ còn sử
dụng hạn ngạch để kiểm soát khối lợng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định.
Phần lớn hạn ngạch do cục hải quan quản lý, bao gồm hạn ngạch thuế quan và hạn
ngạch phi thuế quan:
7
Hạn ngạch thuế quan quy định số lợng đối với hàng hoá nào đó khi nhập khẩu
vào Mỹ đợc hởng mức thuế quan thấp trong một thời gian nhất định, nếu vợt quá sẽ bị
đánh thuế cao.
Hạn ngạch phi thuế quan quy định số lợng hàng hoá đợc phép nhập khẩu trong
một thời gian xác định, nếu vợt quá sẽ không đợc phép nhập khẩu.
Có thể thấy rằng các nhà kinh doanh tại thị trờng Mỹ phải chấp nhận cạnh
tranh rất gay gắt nh nhiều ngời mô tả là: một mất một còn. Cái giá phải trả cho sự
nhầm lẫn là rất lớn, ngời tiêu dùng Mỹ nôn nóng nhng lại mau chán vì thế nhà sản
xuất phải sáng tạo và thay đổi nhanh đối với sản phẩm của mình, thậm chí phải có
phản ứng trớc .
Có thể tiếp cận thị trờng Mỹ thông qua một trong hai cách: bán hàng trực tiếp
cho ngời mua hoặc bán hàng thông qua đại lý. Lựa chọn cách nào là tuỳ thuộc mỗi
doanh nghiệp. Đa ra đợc và có quyết tâm thực hiện mục tiêu xuất khẩu của mình là
doanh nghiệp đã thành công bớc đầu trên con đờng tiến tới chinh phục thị trờng Mỹ.
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam vào thị
trờng Mỹ.
Kể từ khi tổng thống Mỹ Bill Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận
TM và nối lại quan hệ mậu dịch với Việt nam (3-2-1994), sau đó hai nớc chính thức
thực hiện bình thờng hoá quan hệ ngoại giao (11-7-1995) đến nay, song song với việc
giải quyết các vấn đề quá khứ gây cản trở đến tiến trình bình thờng hoá hoàn toàn
quan hệ kinh tế thơng mại, Việt nam và Hoa kỳ đã từng bớc thiết lập những cơ sở
pháp lý cần thiết cho việc mở rộng các quan hệ kinh tế thơng mại song phơng
thông qua việc ký kết các hiệp định, văn bản pháp lý.
Có thể kể ra một số mốc thời gian đáng chú ý trong tiến trình thiết lập quan hệ TM
Việt nam Hoa kỳ nh sau:
*5-8-1995: Bộ trởng ngoại giao Mỹ đến thăm Việt nam.
*10-1995: Chủ tịch nớc CHXHCN Việt nam dự lễ kỷ niệm 50 thành lập Liên
Hiệp Quốc và lần đầu tiên thăm Mỹ, tiếp xúc với nhiều quan chức cấp cao của chính
8
quyền Mỹ. Hội đồng thơng mại Mỹ tổ chức Hội nghị về bình thờng hoá quan hệ, bớc
tiếp theo trong quan hệ Việt- Mỹ.
*11-1995: Đoàn liên bộ Mỹ thăm Việt nam, tìm hiểu hệ thống luật lệ thơng
mại- đầu t của Việt nam.
*4-1996: Mỹ trao cho Việt nam văn bản Những yếu tố bình thờng hoá quan
hệ kinh tế thơng mại với Việt nam.
*7-1996: Việt nam trao cho mỹ văn bản Năm nguyên tắc bình thờng hoá
quan hệ KT-TM và đàm phán hiệp định TM với Mỹ.
*9-1996: bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định TM song phơng.
*7-5-1997: Đại sứ Việt nam tại Mỹ, đại sứ Mỹ tại Việt nam nhậm chức tại
thủ đô mỗi nớc, hoàn tất quá trình bình thờng hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nớc.
*10-3-1998: Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký quyết định bãi bỏ việc áp
dụng điều luật bổ sung Jackson- Wanick đối với Việt nam (hàng năm quyết định này
đều đợc tiếp tục gia hạn ), cho phép Việt nam tham gia vào các chơng trình khuyến
khích xuất khẩu và hỗ trợ đầu t của Hoa kỳ bao gồm các chơng trình liên quan đến cơ
quan phát triển thơng mại (TDA), nhận hàng xuất nhập khẩu (EXIM- BANK), công ty
đầu t t nhân hải ngoại (OPIC), và cơ quan viện trợ phát triển quốc tế (USAID) của
chính phủ Hoa kỳ.
*1999: Việt nam dành cho Hoa kỳ quy chế Tối huệ quốc trong buôn bán (đ-
ợc gia hạn hàng năm).
*Cuối cùng 13-7-2000 tại Washington bộ trởng thơng mại Việt nam Vũ
Khoan và bà Charleen Bashefski - Đại diện thơng mại của phủ tổng thống Hoa kỳ đã
thay mặt chính phủ hai nớc ký kết hiệp định thơng mại giữa nớc CHXHCN Việt nam
và Hợp chủng quốc Hoa kỳ, mở ra một trang mới trong quan hệ thơng mại giữa Việt
nam và Hoa kỳ , tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ KT-TM hai nớc phát triển trên nguyên
tắc đôi bên cùng có lợi, phù hợp với mong muốn của nhân dân hai nớc. Theo lời của
Thứ trởng thơng mại Mai Văn Dâu: Hiệp định thơng mại Việt nam-Hoa kỳ đợc ký
kết đáp ứng lòng mong mỏi không chỉ của riêng các doanh nghiệp của Việt nam và
9
Hoa kỳ mà cả các doanh nghiệp nớc ngoài khác. Hiệp định chẳng những có lợi cho hai
nớc mà còn có lợi cho sự hợp tác ở Đông Nam á, Châu á- Thái Bình Dơng, cũng nh
trên thế giới. Ký kết hiệp định thơng mại Việt Nam-Hoa Kỳ là thành tựu mới của việc
triển khai đờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phơng hoá, đa dạng hoá của
Đảng và nhà nớc Việt Nam và là một bớc mới trong quá trình Việt nam chủ động hội
nhập với nền kinh tế thế giới . Hoa kỳ cũng đánh giá hiệp định này là một bớc tiến
quan trọng của việc Việt nam tham gia tổ chức thơng mại thế giới và khẳng định tích
cực ủng hộ Việt nam tham gia tổ chức này.
Trên cơ sở các nguyên tắc của tổ chức thơng mại thế giới (WTO) trong khi đàm
phán , hai bên đã thống nhất với nhau 5 nguyên tắc:
*Bình đẳng cùng có lợi.
*Không phân biệt đối xử, dành cho nhau quy chế Tối huệ quốc.
*Tuân thủ pháp luật và thông lệ quốc tế.
*Tính đến điều kiện của Việt nam là nớc đang phát triển, có thu nhập
thấp và đang chuyển đổi sang cơ chế thị trờng Việt nam cần có thời kỳ chuyển đổi để
điều chỉnh luật lệ, chính sách của mình cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
*Quan hệ hai nớc sẽ xây dựng tơng tự nh Mỹ đã xây dựng với các nớc
khác, Mỹ đòi hỏi Việt nam không hơn những điều Mỹ đòi hỏi các nớc khác.
Trong điều kiện hiệp định đợc phê chuẩn, hàng hoá Việt nam sẽ đợc cạnh tranh
lành mạnh với hàng hoá của các nớc khác và hàng hoá của Hoa kỳ trên một sân chơi
công bằng. Bởi khi đợc hởng quy chế u đãi Tối huệ quốc thì mức thuế bình quân hàng
xuất khẩu của Việt nam sẽ giảm từ 40-50% còn khoảng 3%. Nhờ vậy, theo ớc tính của
ngân hàng thế giới, xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ năm đầu tiên sau khi phê chuẩn
hiệp định có thể tăng lên khoảng 1,3 tỷ USD tức là gần gấp đôi so với mức của năm
2000, đạt 3 tỷ USD vào năm 2005 và 8 tỷ USD năm 2010
Rõ ràng là hiệp định thơng mại Việt- Mỹ sẽ mở ra cơ hội làm ăn, hợp tác mới
cho các nhà đầu t Mỹ tại Việt nam. Đồng thời cũng có tác động tích cực trong khuyến
khích đầu t nớc ngoài vào Việt nam vì họ coi Việt nam là cầu nối để từ đó hàng hoá
10
của họ xuất khẩu vào thị trờng Hoa kỳ với mức thuế thấp. Với điều này, hàng hoá đợc
sản xuất ở Việt nam sẽ tăng cả về số lợng và chất lợng , cơ hội nâng cao tổng kim
ngạch hàng xuất sang Mỹ cũng vì thế mà tăng lên.
Chúng ta biết rằng, với mô hình đàn sếu bay Mỹ chú trọng vào phát triển
khu vực kinh tế mới ( nền kinh tế điện tử ) họ sẽ nhờng những ngành sản xuất hàng
hoá thông thờng cho các nớc khác với hình thức chủ yếu là đầu t trực tiếp sau đó nhập
khẩu lại thị trờng Mỹ những mặt hàng có lao động rẻ: dệt may, giày dép, thiết bị máy
móc cơ bản ( mô tơ, động cơ máy tiện ), TV, đầu máy video Mà Việt nam với lợi thế
về tài nguyên, lao động dồi dào nếu đợc đầu t hợp lý sẽ có tiềm lực rất lớn ở những
mặt hàng này.
Sau khi chúng ta có đợc quy chế thơng mại bình thờng thì hai ngành có triển
vọng nhất là dệt may và giày dép. Nhng ngành dệt may sẽ bị hạn chế bằng hạn ngạch,
còn giày dép đợc tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, với sản phẩm dệt may ta đã có khá
nhiều kinh nghiệm tiếp cận thị trờng EU và Nhật bản nên việc vào thị trờng Mỹ sẽ
không mâý khó khăn. Hơn nữa, ngay tại thị trờng Mỹ ngời ta cũng đang tìm nguồn
cung cấp những sản phẩm này ở Việt nam vì có lao động rẻ. Ngành dệt may Việt nam
đã đề ra chiến lợc phát triển tăng tốc đầy tham vọng với mục tiêu đến năm 2005 đạt
giá trị kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sang thị trờng Mỹ đạt
khoảng 1-1,5 tỷ USD.
Còn mặt hàng giày dép, tuy mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim
ngạch nhập khẩu của Mỹ, song trên cơ sở phát huy tối đa những lợi thế sẵn có cộng
thêm thế suất sẽ giảm xuống còn 10% nên việc hy vọng gia tăng thị phần cho mặt
hàng này ở thị trờng Mỹ không phải là điều quá xa vời.
Thuỷ sản, cà phê cũng là những mặt hàng Việt nam có thế mạnh.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi để nuôi trồng thuỷ sản (bờ biển dài, vùng biển có
năng lực tái sinh học cao, tơng đối sạch và nhiều cửa sông, lạch ), thuỷ sản lại là một
trong những mặt hàng đợc Mỹ khuyến khích nhập khẩu (thuế suất 0%) và nhập khẩu
lớn. Cho nên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ sẽ có những bớc tiến mạnh mẽ
nếu đợc quy hoạch và đầu t hợp lý.
11
Cà phê, với lợi thế đợc miễn thuế nhập khẩu vào Mỹ lại chiếm đợc sự a chuộng
của ngời tiêu dùng ở thị trờng này nên kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua đã
tăng mạnh. Với việc chú ý hơn đến chất lợng hàng xuất khẩu (giảm tỷ lệ hạt vỡ,
đen ) kim ngạch xuất khẩu cà phê sẽ còn tăng hơn nữa.
Việc phê chuẩn hiệp định thơng mại cũng giúp Việt nam tiến gần hơn đến việc
đợc hởng chế độ u đãi thuế quan phổ cập chung (GSP) của Hoa kỳ áp dụng mức thuế
suất bằng 0 cho 4284 mặt hàng xuất khẩu từ các nớc đang phát triển .
Tuy nhiên, cần phải khẳng định một điều là không phải mọi mặt hàng xuất khẩu
đều có khả năng tăng nhiều là nhờ vào việc chuyển sang mức thuế mới. Đơn cử các
mặt hàng nông sản nh cà phê nhân , tiêu và dầu thô đã đ ợc hởng mức thuế suất rất
thấp gần 0% kể từ năm 94 khi Hoa kỳ bỏ cấm vận với Việt nam. Triển vọng tăng kim
ngạch xuất khẩu là do tự bản thân hàng hoá có sức cạnh tranh nếu đợc sự quan tâm,
đầu t, quy hoạch hợp lý.
Chơng II
Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt
nam sang Mỹ và việc đáp ứng nhu cầu thị
trờng Mỹ của các DNVN
1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị tr-
ờng Mỹ.
12
Từ khi chính phủ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam đến nay, mặc dù cha đ-
ợc hởng quy chế MFN trong quan hệ thơng mại với Mỹ, nhng hoạt động thơng mại
giữa Mỹ và Việt nam vẫn phát triển liên tục cán cân thơng mại của Việt nam và Mỹ từ
thâm hụt đã chuyển sang tình trạng thặng d trong những năm gần đây: Bảng
1: Thơng mại Việt nam Hoa kỳ 1994-2000.
Đơn vị : Triệu USD.
Năm XKVn sang Mỹ NKVn từ Mỹ Tổng KN buôn bán Cán cân TM
1994 50.45 172.22 222.67 -121.77
1995 198.97 252.86 451.83 -53.89
1996 319.04 616.05 935.09 -297.01
1997 388.19 277.79 665.98 +110.40
1998 553.441 274.22 827.63 +279.19
1999 601.90 277.30 879.20 +324.60
2000 732
Nguồn: Tạp chí Tài chính quốc tế 12/2000- trang 47.
Bảng 1 cho thấy kim ngạch mậu dịch Việt nam-Hoa kỳ năm 1994 đã đạt trên
222 triệu USD (so với 62 triệu USD năm 93-tăng hơn 3 lần ). Con số này năm 1995 đã
lên tới 450 triệu USD (gấp 2 lần so với năm trớc ). Năm 1996 tổng kim ngạch đã đạt
gần 1 tỷ USD, một con số đáng khích lệ. Căn cứ vào bảng số liệu trên ta có thể thấy, từ
năm1996 trở về trớc,Việt nam luôn nhập siêu từ Hoa kỳ, nhng từ những năm sau Việt
nam lại luôn xuất siêu sang Hoa kỳ. Năn 1997 do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính tại Châu á, Việt nam phải giảm bớt các khoản nhập khẩu của mình, do vậy kim
ngạch buôn bán có phần giảm sút, chỉ còn 665 triệu USD. Sang năm 1998 và 1999
cùng với sự hồi phục của các nền kinh tế ở Châu á, kim ngạch đã có dấu hiệu gia tăng
nhng vẫn dừng ở những con số đáng khiêm tốn: 827 triệu USD và 879 triệu USD,
trong đó kim ngạch xuất khẩu lần lợt là 553 triệu USD và 602 triệu USD, lớn hơn con
số nhập khẩu rất nhiều. Sang đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt
nam đạt 732 triệu USD. Riêng 6 tháng đầu năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của Việt
nam sang Mỹ đạt 400 triệu USD. Đây là một sự tăng trởng khá nhanh và đáng khích
lệ. Tuy nhiên nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu của nớc ta vào Mỹ với kim ngạch xuất
13
khẩu của một số nớc Châu á khác với Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu giữa hai nớc Việt
Mỹ là quá nhỏ so với tiềm năng. Chẳng hạn, trong năm 2000 kim ngạch xuất khẩu
của Băng-la-đét sang Mỹ là 2.4 tỷ USD, Philipin là 13.9 tỷ USD , Thái lan là 6.4 tỷ
USD
Với hiệp định thơng mại song phơng Việt Mỹ các chuyên gia kinh tế Việt
nam dự định rằng năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam Hoa kỳ
có khả năng đạt tới 2 tỷ USD, tăng 2 lần so với năm 1999, trong đó Việt nam xuất
khẩu khoảng 1.2 tỷ USD và nhập khẩu khoảng 0.8 tỷ USD. Nhng trong tình hình hiện
nay, mục tiêu trên là rất khó nếu không muốn nói là không thể đạt đợc (ít nhất là cho
đến hết năm nay).
Qua xem xét có thể nhận thấy rằng, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Việt nam sang thị trờng Mỹ trong thời gian qua bao gồm: hải sản, dầu thô, cà phê, dệt
may, gạo, hoa quả Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đang có sự thay đổi. Trong những
năm đầu xuất khẩu, các mặt hàng nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản chiếm tới hơn 70%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc. Trong những năm gần đây, tỷ trọng xuất
khẩu của nhóm hàng giầy dép, dệt may và khoáng sản có bớc chuyển biến tích cực,
chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc .
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét